~Giải trí lành mạnh~
Welcome to 4rum The Entertainment, 4rum của chúng tôi bảo đảm không làm bạn phải buồn lòng ^^
~Giải trí lành mạnh~
Welcome to 4rum The Entertainment, 4rum của chúng tôi bảo đảm không làm bạn phải buồn lòng ^^
~Giải trí lành mạnh~
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

~Giải trí lành mạnh~

[T]he [E]ntertainment
 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu
November 2024
MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
252627282930 
CalendarCalendar
Top posters
The Legend Killer (984)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
MasterP (921)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
Austin 3:16 (900)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
ThiênThầnTrắng (850)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
TheHardyBoyz (367)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
MasterT (239)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
lamkevin73 (145)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
Chirs Killer (115)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
ice_Frog97 (73)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
Cena Sucks (71)
Những người khốn khổ - Victor Hugo Vote_lcapNhững người khốn khổ - Victor Hugo Voting_barNhững người khốn khổ - Victor Hugo Vote_rcap 
Latest topics
» [Download] WWE Smackdown 23/8/2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 23, 2013 3:45 pm

» [Download] TNA iMPACT Wrestling 22/8/2013 Hardcore Justice
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 23, 2013 3:14 pm

» [Download] WWE Raw 19/8/2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 23, 2013 11:50 am

» [Download] WWE SummerSlam 2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 23, 2013 11:29 am

» [Photos] SmackDown 23/8/2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 23, 2013 11:07 am

» [Photos] RAW 19/8/2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Thu Aug 22, 2013 11:19 pm

» [Online] Backlash 2016
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Thu Aug 22, 2013 9:46 pm

» (Bàn Luận) SummerSlam 2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 16, 2013 10:11 pm

» (Download) RAW 12/8/2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 16, 2013 7:57 pm

» (Online) RAW 12/8/2013
Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeby The Legend Killer Fri Aug 16, 2013 7:53 pm

Statistics
Diễn Đàn hiện có 54 thành viên
Chúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: tranthuks44@gmail.com

Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 4042 in 928 subjects
Thống Kê
Hiện có 51 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 51 Khách viếng thăm

Không

Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 83 người, vào ngày Wed Oct 02, 2024 3:47 am
Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm

Share | 
 

 Những người khốn khổ - Victor Hugo

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:07 pm

NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ (BẢN FULL)


VICTOR HUGO


NXB VĂN HỌC



LỜI GIỚI THIỆU

Victor Hugo là nhà văn lãng
mạn lớn nhất của nước Pháp, thế kỷ XIX. Cuộc đời chiến đấu không ngừng
của ông, những tác phẩm văn chương của ông phản ánh trung thành những
biến cố lịch sử lớn lao, những cuộc cách mạng của nhân dân Pháp suốt thế
kỷ XIX. Tác phẩm của ông tiêu biểu cho ý chí tự do, lòng tha thiết yêu
hòa bình, lòng tin tưởng cao cả vào con người lao động. Bởi vậy, ngày
nay ở mọi nước, người ta đều công nhận Victor Hugo là một nhà văn tiến
bộ không những của nước Pháp mà còn là của toàn thể nhân loại.

Năm 1952, nhân dân khắp thế
giới đã tổ chức long trọng lễ kỷ niệm ngày sinh nhật lần thứ 150 của
Hugo tại Viên, thủ đô nước Áo. Tác phẩm của ông đã được dịch ra rất
nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Victor Mari Hugo sinh ngày
26 tháng 2 năm 1802 ở Bơdăngxông, một tỉnh nhỏ ở miền Đông nước Pháp. Bố
ông là một sĩ quan cao cấp thời kỳ Napoleon đệ nhất. Mẹ ông thuộc một
gia đình theo chủ nghĩa quân chủ và ngoan đạo. Lúc còn nhỏ, Hugo sống
với mẹ, chịu ảnh hưởng tư tưởng của mẹ. Nhưng từ thời thơ ấu, ông đã ở
Pari “quê hương” của ông, quê hương của cách mạng Pháp, nên ông sớm hấp
thụ những tư tưởng cách mạng, tinh thần dân chủ. Những năm còn nhỏ tuổi,
Hugo theo bố mẹ sang Ý rồi sang Tây Ban Nha. Cảnh vật chói lọi ở những
nước này sẽ để lại trong thơ văn của ông những hình ảnh tươi sáng, những
kỷ niệm sâu sắc. Từ năm lên mười, Hugo ở hẳn Pari, học tại trường trung
học Luilơ Gơrăng. Năm mười bốn tuổi, Hugo bắt đầu làm nhiều thơ, năm
mười lăm tuối được giải thưởng thơ của Viện Hàn lâm Pháp. Năm mười bảy
tuổi, ông bỏ học để chuyên sáng tác.

Những tác phẩm đầu tiên của
ông gợi lại thời kỳ Trung cổ phong kiến, biểu hiện tư tưởng quân chủ rõ
nét, những đồng thời cũng đã có mầm mống của tư tưởng nhân đạo, chống
đối lại chế độ nô lệ lúc bấy giờ.

Từ 1820 đến 1830, Hugo liên
lạc với nhóm nhà văn lãng mạn và trở nên lãnh tụ của nhóm này. Ông mang
hết thiên tài lỗi lạc và trái tim nồng nhiệt đấu tranh cho một nền văn
học mới, tự do, chống đối lại thứ nghệ thuật gò bó, giả tạo của chủ
nghĩa cổ điển lúc ấy đã lỗi thời. Năm 1827, ông viết vở kịch Cơromuen;
bài tựa của vở này được coi như bản tuyên ngôn của phái lãng mạn. Huygo
chủ trương phá bỏ tất cả những luật lệ cổ điển, khắt khe và đòi hỏi phải
tôn trọng hiện thực, đòi hỏi tự do tưởng tượng. Vở kịch Hécnani, diễn
năm 1830, gây ra những cuộc chiến đấu và những cuộc tranh luận kịch liệt
giữa phái cũ và phái mới. Nghệ thuật lãng mạn hoàn toàn thắng lợi. Trên
những nguyên tắc hoàn toàn mới về kịch, Hugo viết một loạt những vở
kịch lãng mạn: Mariông Đơlormơ (1829), Luycơrét Borgia (1833), Mari
Tuyđo (1833) và đặc biệt Ruy Bơla (1838). Ông đưa lên sân khấu những
hoàn cảnh vĩ đại, những con người đầy nhiệt huyết, những mâu thuẫn gay
gắt nóng bỏng, những trái tim nồng cháy. Người ta chú ý nhất đến vở Ruy
Bơla, trình bày nhân vật chính là một người đầy tớ có tâm hồn cao thượng
và yêu tha thiết hoàng hậu Tây Ban Nha. Đó là cả một cuộc cách mạng về
quan niệm kịch của Hugo, trái hẳn lại với quan niệm kịch cổ điển.

Từ sau 1830, bắt đầu một
giai đoạn mới trong cuộc đời, cũng như trong sáng tác của Hugo. Phong
trào cách mạng Pháp càng ngày càng mạnh mẽ. Từ 1830 đến 1832 tại một số
thành phố lớn ở Pháp, nhất là Paris và Lyông, nhân dân lao động nổi dậy
chống chính quyền tư sản phản động, Hugo có cảm tình đặc biệt với phong
trào cách mạng. Trong bài tựa cuốn Luycơrét Borgia (1833), ông tuyên bố
nhà văn phải “sáng tác đồng thời với đấu tranh chính trị”. Từ 1830, Hugo
không ngừng sáng tác và không ngừng tích cực tham gia đâu tranh chính
trị. Phái lãng mạn thành hình từ 1810, đã có sự chia rẽ: một bên chủ
trương nghệ thuật vì nghệ thuật, đứng đầu là Têôphin Gôchiê; một bên chủ
trương nghệ thuật phục vụ dân sinh; Victor Hugo là người sáng lập ra
dòng sau này. Đến năm 1859, ông viết cho thi sĩ Bôđơle: “Không bao giờ
tôi chủ trương nghệ thuật vì nghệ thuật; bao giờ tôi cũng nói: nghệ
thuật phải phục vụ cho tiến bộ”. Hugo viết để phục vụ đấu tranh, phục vụ
quần chúng. Trong tư tưởng của ông, đã có một chuyển hướng quyết định.
Chế độ phản động của Lui XVIII, cuộc cách mạng 1830, 1832 là những
nguyên nhân sâu sắc của sự chuyển biến trong tư tưởng của nhà văn.

Năm 1831, ông viết cuốn tiểu
thuyết lịch sử vĩ đại Nhà thờ Đức bà Paris, một cuốn tiểu thuyết lãng
mạn tích cực điển hình. Ông đả kích kịch liệt bọn quý tộc, đề cao tấm
lòng cao thượng, trong sáng của người bình dân. Cũng năm 1831, ông xuất
bản tập thơ Lá Thu, trong đó ông viết: “Ta yêu tự do vì hoa trái của Tự
do”. Từ 1830 đến 1840, các tập thơ của ông đều thấm nhuần lòng xót
thương thấm thía những kẻ khốn cùng, lòng tin tưởng vào sức mạnh của
nhân dân, lòng hy vọng vào tương lai loài người. Trong tập Ngày cuối
cùng của người tội nhân (1829) và trong truyện ngắn Cơlốtđơ, thằng cùng,
Hugo phản đối thống thiết tội tử hình trong luật pháp lúc bấy giờ.

Vào khoảng 1840, Hugo bỗng
nhiên ngả về phái hữu. Ông bênh vực chế độ quân chủ chuyên chế, bên vực
tên trùm tư sản Lui Philip, chống lại tư tưởng dân chủ. Năm 1841, ông
được bầu vào Hàn lâm viện Pháp và năm 1845 được phong bá tước.

Nhưng sau 1848, trước sự
phản bội của bọn quý tộc và bọn đại tư sản, Hugo trở nên chiến sĩ số một
của tự do, dân chủ, của chế độ Cộng hòa Pháp, cho đến ngày cuối cùng.
Từ cuộc đảo chính ngày 2 tháng chạp 1851, lật đổ chế độ cộng hòa, Hugo
phải đày ra nước ngoài, thoạt tiên ở Bỉ, rồi ra đảo Giêcxây và Ghécnơxây
suốt thời gian mười tám năm trời dưới chế độ đế chế thứ II. Ông cực lực
chống lại Napoleon III. Thời kỳ này ông sáng tác những tập thơ và những
bộ tiểu thuyết có giá trị nhất. 1852, ông viết Napoleon tiểu đế và xuất
bản tập thơ Trừng phạt năm 1953; ông lên án gay gắt sự phản bội, sự áp
bức của triều đình Napoleon III. “Người ta biết Hugo rời bỏ nước Pháp và
từ những hòn đảo của Anh Cát Lợi trong biển Măngsơ ông đã nhóm ngọn lửa
đấu tranh chống Napoleon tiểu đế” (Aragông: Bạn đã đọc Victor Hugo chưa?).
Hugo thực sự đã trở thành một một chiến sĩ cách mạng, mang cả cuộc đời
mình, thiên tài của mình để phục vụ cách mạng. Những tập thơ trên mở đầu
cho giai đoạn thứ ba trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Trong thời kỳ ở đảo Giêcxây
và Ghécnơxây, Hugo viết mấy bộ tiểu thuyết lớn: Những người khốn khổ
(viết xong năm 1861), Những người lao động ở biển (1866) và đoạn đầu tập
thơ Thiên anh hùng ca của nhân loại (1857 – 1883).

Những người khốn khổ là một
cuốn tiểu thuyết xã hội hiện đại, một thiên anh hùng ca bằng văn xuôi.
Hugo diễn tả cuộc đời trăm ngàn khổ cực và tâm hồn vô cũng cao thượng
của một người tù khổ sai là GIĂNG VANGIĂNG, của một thiếu phụ bị xã hội
tư bản tàn bạo chà đạp là Phăngtin, của một trẻ thơ anh dũng là Gavơrốt.
Trong cuốn tiểu thuyết vĩ đại này, Hugo đứng hẳn về phía quần chúng,
khi mô tả cuộc chiến đấu hùng tráng của nhân dân cần lao Paris nổi dậy
năm 1832 chống lại chính quyền phản động lúc bấy giờ.

Trong bộ tiểu thuyết Những
người lao động ở biển, Hugo mô tả cuộc đấu tranh của chàng đánh cá
Giliát với biển cả và sự hy sinh cao quý của chàng cho hạnh phúc của
người chàng yêu tha thiết, Đêruysét.

Thiên anh hùng ca của nhân
loại gồm những bài thơ hào hùng ca ngợi sự tiến bộ của loài người từ
bóng tối nguyên thủy tiến lên một tương lai rực rỡ.

Năm 1859, Napoleon III ân xá
cho Hugo, nhưng Hugo không chịu trở về nước Pháp. Ông nói: “Giữ tròn
lời thề với lương tâm, tôi chịu đến cũng số phận của Tự do. Tự do đã bị
trục xuất khỏi đất Pháp, khi nào Tự do trở về đất nước, tôi sẽ trở về
cũng với Tự do”.

Năm 1870, đế chế thứ III sụp
đổ, Hugo trở về Paris. Tuy đứng về lý tưởng xã hội, ông không tán thành
Công xã Paris, nhưng ông thông cảm sâu sắc với giai cấp công nhân nổi
dậy làm cách mạng và khâm phục họ. Sau khi phong trào bị dập tắt, ông
đứng dậy phản kháng những sự trả thù, khủng bố trắng trợn của bọn thống
trị phản động. Ông đòi ân xá cho tất cả những người tham gia Công xã và
cho một số người trốn ở nhà ông tại Bỉ. Cuộc cách mạng vĩ đại này là
nguồn cảm hứng cho một tập thơ có giá trị lớn của ông là tập Năm khủng
khiếp (1870 – 1871). Ở đây, thi hào ca ngợi con người vô sản đứng lên
làm cách mạng và kết án những kẻ nhúng tay vào biển máu để trả thù những
người yêu nước. Năm 1874, ông hoàn thành cuốn tiểu thuyết Chín mươi ba,
bắt đầu viết từ những năm còn ở ngoài đảo. Ông mô tả lại cuộc cách mạng
1789 – 1794, coi đó như một sự kiện lớn nhất trong lịch sử thế giới
hiện đại.

Những năm cuối cùng, ông
viết Nghệ thuật làm ông, đầy tình thương yêu trẻ con và hoàn thành tập
thơ Thiên anh hùng ca của nhân loại.

Victor Hugo mất ngày 22
tháng 5 năm 1885, được toàn thể nhân dân Pháp thương tiếc. Ngày đưa tang
ông được coi như ngày quốc tang. Những cựu chiến sĩ cách mạng Công xã
Paris kêu gọi mọi người tưởng nhớ đến nhà đại văn hào đã hết lòng ủng hộ
những người lao động tham gia Công xã.

Cuộc đời của Hugo nằm suốt
cả trong thời kỳ bão táp của cách mạng Pháp và của châu Âu, thế kỷ XIX.
Ông sinh trước ngày đế chế thành lập và chết sau Các Mác hai năm. “Tác
phẩm của ông ra đời trên đống gạch đổ nát của ngục Baxti và chấm dứt khi
những nghiệp đoàn thợ thuyền sắp sửa tuyên bố rằng mùa xuân sẽ thuộc về
họ ngày 1 tháng 5 tại Chicago. Victor Hugo là tâm gương phản chiếu cách
mạng Pháp”. (Aragông: sđd)

Quả vậy Hugo đã tiến từ xu
hướng quân chủ đến tư tưởng dân chủ xã hội, từ nghệ thuật lãng mạn đến
xu hướng hiện thực. Cuộc đời và tác phẩm của ông tiêu biểu cho cuộc phấn
đấu không ngừng cho cách mạnh, cho tự do dân chủ, cho hòa bình hữu nghị
các dân tộc.

Năm 1849, ở Đại hội quốc tế
lần thứ nhất, những người Bạn của Hòa bình họp tại Paris, Hugo có nói:
“Tư tưởng hòa bình là ở khắp thế giới, là tài sản của tất cả các dân
tộc, mọi người đòi hỏi hòa bình vì hòa bình là hạnh phúc tối cao của
họ”. Hugo đã hết sức bênh vực cho Giôn Brao, người lãnh tụ phong trào
đòi hỏi tự do cho người da đen ở Mỹ, bị chính phủ Mỹ kết án tử hình.
Hugo ủng hộ cuộc cách mạng ở Iếchlăng, ủng hộ nhân dân đảo Síp khởi
nghĩa chống bọn thống trị Thổ Nhĩ Kỳ, ủng hộ cuộc khởi nghĩa của nhân
dân Cuba chống bọn thực dân Tây Ban Nha.

Là lãnh tụ của phái lãng
mạn, ông luôn trung thành với những tư tưởng lãng mạn tích cực, chống
đối lại xu hướng lãng mạn tiêu cự, thoát ly. Ông chế giễu bọn nhà văn hô
hào nghệ thuật thuần túy và đòi cho được nghệ thuật phải phục vụ chân
lý, phản ánh thực tế. Hugo đề ra nhiệm vụ của nghệ thuật là phải phục vụ
lợi ích của nhân dân; sức mạnh của văn chương là ở mối liên hệ chặt chẽ
với nhân dân.

Chủ nghĩa lãng mạn của Hugo
thấm nhuần tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Nó rất gần chủ nghĩa hiện thực,
Aragông gọi Hugo là “nhà thơ hiện thực”. Tác phẩm của Hugo phản ánh đời
sống cùng cực của nhân dân dưới chế độ tư bản, phản ánh tâm địa xấu xa
bỉ ổi của bọn quý tộc, bọn tư sản thống trị của thời đại. Tác phẩm của
ông cũng mô tả được những con người lao động vùng dậy làm cách mạng.

Tuy vậy, cũng phải thấy ngay
rằng Victor Hugo chịu ảnh hưởng nặng của tôn giáo và mức tư tưởng cao
nhất của ông là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng kiểu của Xanh
Ximông, Phuriê hồi đầu thế kỷ XIX. (Saint Simon (1760 – 1825) là một
nhà nghiên cứu khoa học, người Pháp, có lòng yêu tha thiết loài người,
căm ghét bọn quý tộc địa chủ và bọn tư sản đầu cơ. Ông chủ trương cải
tạo xã hội tư sản và xây dựng xã hội không có người bóc lột người, nhưng
Saint Simon chưa thấy rõ những mâu thuẫn của giai cấp trong xã hội tư
bản nên chủ trương của ông đi đến thất bại hoàn toàn. Charles Fourter
(1772 – 1837) là một nhà kinh tế học người Pháp, lên án kinh doanh vô tổ
chức trong kinh tế tư bản. Ông bênh vực thợ thuyền là “người làm ra tất
cả mà chịu sống đời sống khổ cực”. Ông chủ trương một nền kinh tế có kế
hoạch, nhưng thủ tiêu đấu tranh giai cấp, nên cũng chỉ đi đến thất
bại.)
Thế giới quan của ông, bởi thế, bị hạn chế rất nhiều. Ông không
nhận định được qui luật phát triển của xã hội. Ông tin tưởng rằng chỉ
có tư tưởng mới có thể giải phóng được loài người. Bởi vậy những nhân
vật ông xây dựng thường là những nhân vật có tâm hồn cao thượng, đầy
lòng hy sinh nhưng ít chiến đấu tính. Tiểu thuyết của ông thường có
những đoạn lý thuyết về luân lý, đạo đức, tôn giáo. Ông rất sợ những
cuộc cách mạng đổ máu.

Cuộc đời Victor Hugo là cuộc
đời đấu tranh không ngừng cho chính nghĩa, cho tự do, hòa bình, dân
chủ. Tác phẩm của ông thấm nhuần tư tưởng nhân văn chân chính.

Ngày nay, nhân dân các nước
rất ham đọc tác phẩm của Victor Hugo. Ở Pháp, cách đây ít lâu, báo Nhân
đạo đã đăng lại bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ có minh họa. Trong
thời gian phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp, một đội du kích Pháp đã lấy
tên Gavơrốt làm tên đội.

Ở Việt Nam trước kia đã có
nhiều người dịch thơ của Hugo và Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch bộ “Những người
khốn khổ” với nhan đề bản dịch “Những kẻ khốn nạn”.

Những người khốn khổ là một
bộ truyện lớn nhất mà cũng là một tác phẩm có giá trị nhất trong sự
nghiệp văn chương của Victor Hugo. Ông suy nghĩ về tác phẩm này và viết
nó trong ngót ba mươi năm và hoàn thành năm 1861.

Ngay từ năm 1829, Hugo đã có
ý định viết một cuốn tiểu thuyết về người tù khổ sai. Sau 1830, Hugo
đặc biệt chú ý đến những vấn đề xã hội, nhận xét những bất công trong xã
hội. Ông nhận thấy những kẻ tội phạm, những con người tư bản tàn ác.
Ông tin tưởng rằng những con người ấy có thể cải tạo được bằng đường lối
giáo dực nhân đạo. Ông nhận thức được rõ ràng nhiệm vụ cao quý của nhà
văn là phải góp phần cải tạo xã hội, đấu tranh cho tự do, hạnh phúc của
loài người.

Cũng vào những năm 1830,
trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân lao động, một phong trào
viết tiểu thuyết xã hội dâng cao ở Pháp, Gioócgiơ Xăng cho ra đời cuốn
Lêlia, năm 1832; năm 1842, Ơgien Xuy đăng tập truyện Bí mật thành Paris.

Victor Hugo bắt tay vào công
việc sưu tầm tài liệu và bắt đầu viết bộ tiểu thuyết này, thoạt đầu gọi
là Những cảnh cùng khổ, vào năm 1840. Năm 1854, Những cảnh cùng khổ đổi
thành Những người khốn khổ. Sau một thời gian gián đoạn, Hugo hoàn
thành bộ truyện năm 1861. Đến năm 1862 thì bộ truyện xuất bản đồng thời ở
Brussel (Bỉ) và ở Paris. Trong bốn tiếng đồng hồ đầu tiên ngày phát
hành tập I, đã bán tới 3.500 cuốn.

Những người khốn khổ là bức
tranh của một xã hội. Nó đề cập đến những vấn đề lớn lao trong xã hội
Pháp đầu thế kỷ XIX, mà cũng là của tất cả các xã hội tư sản. Đó là một
bản hùng ca của thời đại. Victor Hugo sau khi hoàn thành bộ tiểu thuyết
này đã nói: “Quyển truyện này là một trái núi”. Quả thế, “một trái núi”,
không những vì số trang của nó, vì những vấn đề to lớn nó bàn tới, mà
chính là vì nó thấm nhuần những tư tưởng nhân đạo, vì nó ca ngợi đạo đức
cao cả của nhân dân lao động, ca ngợi tự do, dân chủ, chống lại cường
quyền áp bức, bóc lột. Đó là lòng thương cảm sâu xa đối với những con
người bị xã hội chà đạp, lòng tin vào tâm hồn cao thượng của họ. Giăng
VanGiăng bị xã hội tư sản bóp nghẹt, chăng lưới bao vây, lùng bắt cho
đến chết, vẫn sống một cuộc sống hy sinh cao quý vì những kẻ bị xã hội
ruồng bỏ. Phăngtin bị xã hội đạp xuống, vẫn là một tâm hồn thanh cao, là
một tấm gương sáng của tình mẹ con. Gavơrốt là một đứa trẻ bị vứt bên
lề đường Paris, vẫn là một tâm hồn thơ ngây, yêu đời, dũng cảm, nghĩa
hiệp. “Những người khốn khổ còn là một bài ca phản kháng đối với cái
trật tự của xã hội tư sản, nó đè bẹp những người nghèo khổ như là một
thứ “định mệnh nhân tạo” và biến những người vì miếng cơm manh áo làm
tên lính bảo vệ nó, thành những cái máy mù quáng, tàn nhẫn.

Những người khốn khổ là một
tác phẩm chan chứa tinh thần lãng mạn cách mạng. Hugo là một nhà văn
lãng mạn. Ông thường dùng phương pháp xây dựng những hình tượng to lớn
để mô tả những tâm hồn siêu việt, những đột biến cao cả trong lòng
người, gây những ấn tượng hùng vĩ cho người đọc. Những nhân vật chính
diện đều sáng ngời đức hào hiệp, hy sinh.

Những người khốn khổ còn ghi
lại những nét hiện thực về xã hội Pháp vào khoảng 1830. Cái xã hội tư
sản tàn bạo được phản ánh trong những nhân vật phản diện như Giave,
Tênácđiê. Tình trạng cùng khổ của người dân lao động cũng được mô tả
bằng những cảnh thương tâm của một người cố nông sau trở thành tù phạm,
một người mẹ, một đứa trẻ sống trong cảnh khủng khiếp của cuộc đời tối
tăm, ngạt thở. Dưới ngòi bút của Hugo, Paris ngày cách mạng 1832 đã sống
dậy, tưng bừng, anh dũng, một Paris nghèo khổ nhưng thiết tha yêu tự
do.

Ưu điểm lớn nhất của Hugo là
khi diễn tả xã hội tư sản, ông không chỉ diễn tả một số nhân vật độc
ác, tàn nhẫn, vô lương tâm mà ông trình bày chế độ như một thực thể nhất
trí trong việc áp bức, bóc lột, ruồng rẫy những người cùng khổ, đè lên
người họ như một thứ định mệnh khốc liệt với các thứ công cụ ghê tởm như
tòa án, tổ chức cảnh binh, quân đội, nhà tù, với báo chí, dư luận,
thành kiến, tập quán.

Trong Lời nói đầu bọ Những
người khốn khổ, Hugo đã nhấn mạnh ý nghĩa sâu xa của tác phẩm. Ông nói
rằng trong cái xã hội văn minh ngày nay mà còn những địa ngục đày đọa
con người thì “những quyển sách như loại này còn có thể có ích”. Với
quan niệm nghệ thuật phục vụ đời sống như vậy, Hugo đã sáng tạo có ý
thức một tác phẩm có ảnh hưởng lớn trong công cuộc đấu tranh chung của
loài người chống áp bức và bóc lột.

Nhưng cũng như tất cả những
người chưa nắm được chủ nghĩa xã hội khoa học, con đường thoát của xã
hội mà ông tưởng tượng ra rất là duy tâm, không tưởng. Lý tưởng của ông
là làm sao cho con người được như giám mục Mirien quên mình như kẻ nghèo
khổ, như ông Mađơlen (Giăng VanGiăng) kinh doanh công nghiệp để cho thợ
có chỗ làm ăn, tiền lời dùng một phần quan trọng vào việc cải thiện đời
sống cho thợ, tổ chức y tế, cứu tế trong xưởng, đề cao thuần phong mỹ
tục. Làm sao cho con người trở nên tốt như thế? Ông Mirien toàn thiện là
nhờ đức tin, Giăng VanGiăng trở nên tốt cũng là nhờ sự cảm hóa của
Chúa, gián tiếp qua ông Mirien. Giăng VanGiăng là một điển hình nạn nhân
của xã hội khi anh nghèo đói, khi anh bị tù tội, cũng như khi anh bị
săn đuổi, tấm lòng nhân ái, hào hiệp vô biên của Giăng VanGiăng là một
biểu tượng đẹp đẽ của tư tưởng nhân đạo của con người. Nhưng con đường
cải tạo mà tác giả nghĩ ra cho anh thì lại quá cá biệt, gần như vô lý.
Làm sao giải thích được chỉ một cử chỉ nhân đạo của giám mục Mirien đã
dẫn dắt con người tối tăm ấy ra ngay chỗ ánh sáng rực rỡ, trong chốc lát
biến một anh trộm cướp quen tay nên một người lương thiện, thay đổi một
con người vì mười chín năm lao lý mà hóa ra thù hằn xã hội thành ra một
con người yêu đời, bác ái, làm sao giải thích được sự biến chuyển đột
ngột và triệt để ấy nếu không viện lẽ thần bí của Chúa?

Đối với Hugo, Chúa ở khắp
nơi. Tuy có thấy một đôi điều ngớ ngẩn, giả dối, ngu dốt trong tu viện
và óc danh lợi, tính xa hoa của đa số bọn giám mục, giáo chủ, Hugo không
một phút nào nghi ngờ tôn giáo và đặt câu hỏi về Chúa. Trong Những
người khốn khổ, không có dấu hiệu nào chứng tỏ rằng ông bắt đầu đoán
thấy tôn giáo đã thành một công cụ của thống trị, trong khi ấy ông thấy
về cảnh binh, tòa án, quân đội tư sản khá rõ. Trái lại ông cho “đức tin
là lành” và Chúa là sự giải đáp cho tất cả. Trong truyện, người
Giacôbanh già đã đả phá cường quyền, lên án chuyên chế, khi nói đến Chúa
cũng nhất trí với viên giám mục và chịu phép ban phúc khi từ trần, Hugo
cũng không nhận định được rõ bản chất tư sản phản động của đế chế
Napoleon đệ nhất và chế độ Lui Philip, nên trong tác phẩm nhiều lúc ông
ca ngợi những người đại diện của hai chế độ ấy. Thuật lời lẽ và ý nghĩ
của nhân vật, tác giả lồng vào nhiều ý kiến về nhân sinh quan và vũ trụ
quan của mình, trong ấy có nhiều điểm độc đáo, tiến bộ, nhưng cũng có
một số điểm người đọc ngày nay cần lấy lập trường khoa học mà xét lại.

Cách mạng ở chỗ chống áp bức
bóc lột, đòi tự do, đòi công lý, Victor Hugo vẫn là cải lương ở giải
pháp. Với ông, làm cách mạng là để thay người xấu bằng người tốt, ban bố
các quyền tự do, cải cách xã hội, mở trường học, dựng một chính quyền
lấy tôn giáo chân chính làm hướng đạo, lấy yêu nước, dân chủ và nhân đạo
làm châm ngôn. Vấn đề xóa bỏ trật tự cũ, thủ tiêu giai cấp chưa được
bàn tới. Ông tin tưởng nồng nhiệt vào luật tiến hóa xã hội, nhưng theo
ông, yếu tố chủ yếu của tiến hóa là sự cải tạo tư tưởng của con người.
Ngày nay ai cũng biết là lý tưởng xã hội theo như ông muốn không thể
thực hiện được bằng cuộc cách mạng như ông quan niệm. Chỉ có giai cấp
công nhân dẫn đầu nhân dân lao động đứng lên lật đổ tư bản đế quốc, kiến
thiết xã hội xã hội chủ nghĩa, mới có thể đem lại công ăn việc làm, tự
do, kiến thức đầy đủ cho tất cả mọi người; và cái mộng cải tạo tư tưởng
con người của ông cũng chỉ thực hiện được khi chính quyền đã ở trong tay
gia cấp vô sản.

Mặc dù có mấy nhược điểm ấy,
Những người khốn khổ vẫn là một bộ tiểu thuyết lớn của thế giới, thầm
nhuần một tinh thần nhân đạo cao cả, tiến bộ rõ rệt và có giá trị lâu
dài.

PHẦN THỨ NHẤT


PHĂNG TIN


QUYỂN I


MỘT CHÍNH NHÂN QUÂN TỬ


I


ÔNG MIRIEN


Năm 1815, ông Sáclơ Frăngxoa
Biêngvơnuy Mirien làm giám mục ở Đinhơ. Đó là một ông lão chừng bảy
mươi lăm tuổi, được cử về đây từ năm 1806. Điều sau đây chẳng dính dáng
tí gì đến nội dung câu chuyện chúng tôi kể, nhưng nêu ra đây những tiếng
đồn, những lời bàn tán về ông lúc ông đến địa phận, có lẽ cũng không
đến nỗi vô ích, dù chỉ là để cho mọi việc được chính xác. Đúng hay sai,
miệng thế thường chiếm trong cuộc đời, nhất là trong vận mệnh người
khác, cũng nhiều chỗ bằng công việc họ làm. Ông Mirien là con một vị bồi
thẩm ở tòa thượng thẩm Etxơ, dòng quý tộc văn thần. Người ta kể rằng,
ông thân sinh định dành cho ông thừa kế chức vụ của mình, nên đã kiếm vợ
cho ông rất sớm, từ lúc ông còn mười tám đôi mươi gì đấy, theo một thói
tục khá phổ biến trong các gia đình tư pháp. Sáclơ Mirien đã có vợ rồi
đấy, nhưng theo dư luận, vẫn làm cho người ta nói về mình khá nhiều. Ông
ta tầm vóc hơi thấp bé, nhưng dáng người cân đối lại phong nhã, duyên
dáng, hóm hỉnh; cả quãng đời thanh niên chỉ dành cho việc giao du và trò
ong bướm. Cách mạng xảy đến, sự biến dồn dập, các gia đình tư pháp bị
tổn vong, xua đuổi, truy lùng, tản mát mọi nơi. Ngay từ những ngày đầu
Cách mạng, Sáclơ Mirien đã di cư sang Ý. Vợ ông ta chết bên ấy vì một
bệnh phổi mắc sẵn từ rất lâu. Hai vợ chồng không có con. Sau đó cái gì
xảy ra trong thân thế Mirien? Sự sụp đổ của xã hội cũ, sự sa sút của
chính gia đình mình, những cảnh tượng bi thảm năm 93, có lẽ còn ghê sợ
hơn đối với những kẻ di cư, vì đã hoảng hốt mà ở xa thì nhìn cái gì cũng
thành phóng đại, tất cả những cái đó phải chăng đã gieo vào trí ông ta
những ý nghĩ từ bỏ công danh, mến đời ẩn dật? (1793: Năm cách mạng Pháp trấn áp kẻ thù dữ dội nhất và xử tử cả vua Lui XVI. Cũng có những vụ trừng trị sai lầm nhất định.)
phải, giữa những cuộc vui chơi và những tình cảm choán hết cuộc đời,
bỗng dưng ông bị giáng một đòn thần bí, kinh khủng, ngón đòn có khi chỉ
vì đánh trúng tim nên quật đổ con người mà lâu nay các tai họa công cộng
đánh vào cuộc sống và tài sản không sao lay chuyển nổi? Không một ai có
thể trả lời được. Chỉ biết một điều là khi từ Ý trở về, ông ta đã là
một cố đạo.

Năm 1804, ông Mirien làm cha xứ ở Brinhôn. Ông đã già và sống cuộc đời ẩn dật.
Vào khỏang lễ đăng quang,
ông phải lên Paris vì có chút việc của nhà xứ, việc gì thì không ai nhớ
nữa. Trong số những nhà quyền thế mà ông đến nhờ vả cho con chiên của
ông, có đức giáo chủ Phếch. Một hôm hoàng đế đến thăm cậu, ông linh mục
đức độ ấy đang đợi ở phòng khách nên gặp ngài lúc ngài đi qua. Ngài thấy
ông nhìn mình có vẻ tò mò, liền quay lại đột ngột hỏi:

- Lão nhân là ai mà nhìn ta kỹ thế?
Ông Mirien đáp:
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nhìn một lão nhân, còn hạ thần thì nhìn một vĩ nhân, bên nào cũng được lợi cả.
Ngay tối hôm ấy hoàng đế hỏi
giáo chủ tên vị cha xứ và sau đó ít lâu, ông Mirien rất ngạc nhiên được
tin mình thăng chức giám mục thành Đinhơ.

Chẳng ai biết thực hư trong
những câu chuyện người ta kháo nhau về đoạn đầu của cuộc đời ông. Có mấy
nhà quen thuộc gia đình ông hồi trước Cách mạng đâu! Thành ra ông cũng
phải chịu cái số phận chung của những người xa lạ mới đến ở một thành
phố nhỏ có lắm kẻ rỗi mồm mà ít người chịu khó suy nghĩ. Ông đành chịu
vậy mặc dù ông làm giám mục và chính vì ông làm giám mục. Thật ra, những
chuyện xì xào về ông chỉ là những chuyện xì xào, những tiếng đồn đại,
những lời nói vào nói ra thôi, nghĩa là toàn những chuyện ba láp cả, như cách nói mạnh mẽ của miền Nam. (Nguyên
văn: Palares: khẩu ngữ Pháp cổ, nghĩa từ nguyên là tặng vật linh tinh
trao cho một vua hoặc tù trưởng Châu Phi, nghĩa rộng là chuyện dông dài
vô bổ. Hình như danh từ này đã nhập tích vào miền Nam Việt Nam và trở
thành: ba láp).

Dù sao, chín năm trời ông
làm giám mục ở Đinhơ, những chuyện thóc mách người tỉnh nhỏ ưa đem ra
bàn tán buổi đầu ấy dần dần rồi cũng bẵng đi hết. Chẳng một ai dám nói,
mà cũng chẳng một ai dám nhớ đến nữa.

Đến nhận chức ông có đem
theo một người em gái, cô Baptistin. Cô kém ông anh mười tuổi, ở vậy
không lấy chồng. Trong nhà độc một người ở, trạc tuổi cô em, gọi là bà
Magơloa. Trước kia bà là vú già của Cha xứ, nhưng nay bà lại kiêm hai
chức, vừa là hầu phòng của cô em, vừa là quản gia của đức giám mục.

Cô Baptistin người cao lại
lép, nước da xanh tái, nét mặt hiền hậu. Cô thực là một người đáng
trọng, vì hình như đàn bà có làm mẹ mới gọi là đáng kính được. Cô không
phải là người có nhan sắc, nhưng một đời tận tụy làm việc thiện đã làm
cho cô có một vẻ gì trong trắng và lúc về già được thêm cái vẻ nhân hậu.
Dáng người mảnh dẻ của thời con gái nay đã nhuốm vẻ thanh cao trong
sáng của bậc thiên thần. Cô không phải chỉ là một trinh nữ, cơ hồ cô là
một linh hồn. Người cô như một cái bóng. Chỉ một chút thể xác để biết là
phụ nữa thôi; một chút thể chất rạng chói hào quang. Hai con mắt to lúc
nào cũng nhìn xuống; một cái cớ cho linh hồn nán lại chốn trần tục.

Bà Magơloa là một bà già
thấp bé, da trắng, béo tròn, lúc nào cũng tất tả, cũng thở hổn hển, một
phần vì hoạt động, một phần vì chứng hen.

Khi ông Mirien đến nhậm
chức, người ta đã đón rước ông về dinh giám mục với mọi nghi lễ long
trọng đúng quy chế nhà vua ban hành. Quy chế này xếp ông liền ngay sau
chức thiếu tướng. Ông thị trưởng và ông chánh án đến thăm ông đầu tiên;
phần ông, trước hết ông cũng đến thăm ông thiếu tướng và ông tỉnh
trưởng.

Xếp đặt xong xuôi, ai nấy chờ xem ông giám mục tỉnh nhà bắt tay vào việc.

II

ÔNG MIRIEN THÀNH ĐỨC CHA BIÊNGVƠNUY





(Biêngvơnuy là tên đệm của ông Mirien nhưng cũng có nghĩa là “người được mong đợi”)
Dinh giám mục thành Đinhơ ở
sát ngay nhà thương. Đó là một tòa biệt thự to lớn và lịch sự, xây toàn
bằng đá từ đầu thế kỷ trước. Người xây dựng nó là đức cha Hăngri Puygiê,
tiến sĩ thần học trường đại học Paris, viện trưởng tu viện Ximo, từ năm
1712 làm giám mục thành Đinhơ. Tòa biệt thự này quả là một lâu đài lãnh
chúa. Chỗ nào cũng uy nghi, nhà riêng của giám mục, phòng khách, phòng
ngủ, sân chơi rộng rãi với những lối dạo có vòm cuốn, theo kiểu
Phơlorăngxơ thời xưa, vườn thênh thang đầy những cổ thụ. Phòng ăn cao
rộng, đẹp đẽ, ở ngay tầng dưới, trông ra vườn. Ở đấy ngày 21 tháng 7 năm
1714, đức cha Hăngri Puygiê đã thết tiệc trọng thể các đức cha Sáclơ
Bruyla đơ Giangli, tổng giám mục – hoàng thân ở Ămbroong, Ăngtoan đơ
Mêgrinhi, tu sĩ dòng thánh Frăngxoa, giám mục ở Grát, Philip đơ Văng
đôm, Pháp quốc lễ thần, viện trưởng tu viện Thánh Ônôrê đơ Lôranh,
Frăngxoa đơ Béctông đơ Griông, giám mục – nam tước ở Văngxơ, Xêda đơ
Xabrăng đơ Forcankiê, giám mục – thống đốc ở Glăngđơve và Giang Xôanen,
linh mục giảng viện, giảng sư bình thời của nhà vua, giám mục – thống
đốc ở Xơnê. Gian phòng bày chân dung bảy nhân vật cao quí‎ ấy, còn cái
ngày đáng ghi nhớ, ngày 29 tháng 7 năm 1714, thì được khắc bằng chữ vàng
trên một cái bàn cẩm thạch trắng.


Nhà thương là một ngôi nhà thấp, chật hẹp có độc một tầng gác với một mảnh vườn nhỏ.
Vừa đến Đinhơ được ba hôm, đức giám mục sang thăm nhà thương. Thăm xong, ông cho mời viên giám đốc đến nhà riêng.

- Ông giám đốc bệnh viện, lúc này ông có bao nhiêu bệnh nhân?

- Bẩm có hai mươi sáu người.

- Đúng, tôi cũng đã đếm.

- Giường họ nằm kê sát nhau quá, - viên giám đốc nói tiếp.

- Tôi cũng đã nhận thấy vậy.

- Phòng dưỡng bệnh chỉ là những buồng con, không khí tù hãm.

- Tôi cũng thấy hình như thế.

- Lại còn cái vườn nhỏ quá, không đủ chỗ cho những người mới hồi phục ra chơi khi trời nắng ấm.

- Tôi cũng nghĩ vậy.

- Vào hồi có dịch, như năm
nay vừa có dịch thương hàn, năm kia có dịch sốt phát ban, người đến chữa
có lúc hàng trăm, chúng tôi chẳng còn biết xoay xở ra sao.


- Tôi cũng đã lo có điều như vậy.

- Bẩm Đức Cha, cũng đành thôi, chứ biết làm thế nào - viên giám đốc nói.
Hai người nói chuyện ở ngay chỗ phòng ăn rộng lớn dưới nhà. Ông giám mục trầm ngâm một lúc rồi quay phắt lại hỏi viên giám đốc.

- Này, ông thử tính xem riêng phòng này kê được bao nhiêu giường.

Viên giám đốc sửng sốt kêu lên:

- Phòng ăn của Đức Cha!

Ông giám mục nhìn quanh nhà, như ước lượng, rồi lẩm bẩm:

- Dễ kê được đến vài chục
giường! – Rồi ông ta nói to: Này, ông giám đốc, tôi nói điều này: theo
tôi thì có lẽ có sự nhầm lẫn gì đây. Các ông đến hăm sáu người, mà xếp
vào năm sáu căn buồng con. Còn chúng tôi ở đây có ba người mà chiếm cả
một ngôi nhà có thể chứa sáu chục. Đúng là người ta nhầm. Các ông đã
chiếm nhà tôi còn tôi thì lại ở nhà các ông. Xin ông trả lại nhà cho
tôi. Nhà của các ông là ở bên này đây.


Ngay hôm sau, hai mươi sáu bệnh nhân nghèo được sang ở dinh giám mục và ông giám mục dọn đến ở bên nhà thương.

Ông Mirien chẳng có của cải
gì. Cha mẹ ông đã bị phá sản trong thời kỳ cách mạng. Bà em có món thực
lợi chung thân mỗi năm hưởng năm trăm phơrăng tiền lời đủ cho bà chi
dùng riêng về phần mình. Lương đồng niên giám mục được mười lăm nghìn
phơrăng. Ngay hôm dọn sang ở bên nhà thương, ông quy định một cách cố
định việc chi dùng số tiền ấy.


Chúng tôi chép lại dưới đây sổ chi tiêu đó, do chính tay ông viết lấy:

Bản ghi những khoản chi tiêu trong nhà:

- Cấp cho chủng viện 1.500 phơrăng
- Hội giảng đạo 100
- Cấp cho nhà tu dòng Laza ở Môngđiđiê 100
- Trường tu sĩ hội truyền giáo nước ngoài ở Paris 200
- Hội đức Thánh Thần 150
- Cơ sở giáo hội ở Đất thánh 100
- Nhà dục anh 300
- Cấp riêng cho nhà dục anh ở Aclơ 50
- Công cuộc cải thiện nhà lao 400
- Công cuộc ủy lạo và phóng thích tù nhân 500
- Để phóng thích những gia trưởng bị tù vì nợ 1.000
- Phụ cấp các thầy giáo ít lương trong địa phận 2.000
- Cấp cho kho lúa nghĩa thương vùng Thượng Anpơ 100
- Cấp cho các trường con gái nghèo của Hội từ thiện ở Đinhơ, Manôxcơ và Xixtơrông 1.500
- Cấp cho kẻ khó 6.000
- Khoản chi tiêu cho riêng mình 1.000

TỔNG CỘNG 15.000 phơrăng

Suốt thời gian ở Đinhơ ông
không hề thay đổi một khỏan nào trong bản dự toán đó. Thế mà ông bảo là
đã dự toán các khoản chi tiêu trong nhà rồi đấy.


Cách sử dụng đồng tiền như
vậy được cô em tuyệt đối tuân theo. Đối với người đàn bà đức hạnh, ông
giám mục vừa là bậc anh, vừa là Đức Cha. Trong gia đình ông là người
bạn, theo phép nhà thờ ông là bậc bề trên. Ông nói thì cô cúi đầu nghe.
Ông làm thì cô em hưởng ứng. Chỉ có người đầy tớ già, bà Magơloa, là có
kêu ca chút ít. Vì, như ta đã thấy, ông giám mục chỉ giữ lại cho mình có
một nghìn phơrăng, cộng với số tiền dưỡng lão của bà cô Baptistin, vị
chi là một nghìn rười phơrăng một năm, mà cả ba người ăn tiêu đều phải
trông vào đấy cả.

Thế mà lần nào có một cha xứ
ở dưới làng lên, ông giám mục cũng cứ giữ lại thết cơm. Được như thế là
nhờ ở tính tiết kiệm nghiêm khắc của bà Magơloa và cách quản lý khéo
léo của cô Baptistin.


Một hôm, bấy giờ ông đã làm giám mục ở Đinhơ được ba tháng, ông bảo:

- Như thế này thì ta cũng túng lắm nhỉ!

Bà Magơloa kêu lên:

- Làm gì mà không túng! Đức
Cha quên cả không xin lĩnh món tiền nhà nước cấp cho tòa giám mục làm
tiền xe trong thành phố và tiền lộ phí kinh lý trong hạt. Đó là lệ của
các giám mục ngày trước.


- Thế à! Bà nói phải đấy.

Và ông làm giấy đòi khoản tiền đó.

Ít lâu sau, hội đồng hàng
tỉnh lưu ý đến đơn của tòa giám mục, bỏ phiếu chuẩn cấp cho ông món tiền
hàng năm ba ngàn phơrăng theo khoản: Chi cho đức giám mục về tiền xe
ngựa và trạm phí, lộ phí kinh lý trong hạt.


Việc này làm cho bọn tư sản
trong tỉnh kêu ầm cả lên. Các vị nguyên lão nghị viện trước kia có chân ở
Viện Ngũ bách và tán thành cuộc đảo chính ngày 18 tháng Sa mù, lại được
hưởng một thái ấp lớn ở vùng Đinhơ, viết cho thượng thư bộ lễ, ông Bigô
đơ Prêamơnơ, một bức thư mật giọng bực tức. (Viện ngũ bách: viện dân
biểu gồm 500 người thời Cách mạng tư sản dân quyền Pháp, bị Napoleon
giải tán năm 1799; Cuộc đảo chính 18 Brumaire của Napoleon 1799 thiết
lập thể chế Tổng đài – Consulat mà y là Tổng đài đệ nhất, chuẩn bị cho
nền Đế chế I)


Xin trích nguyên văn một đoạn:

“...Tiền xe? Làm gì phải cần
đến tiền xe ở một tỉnh chưa đến bốn nghìn dân? Lại tiền trạm phí và lộ
phí kinh lý nữa? Đi kinh lý làm gì đã chứ? Mà đi xe trạm thế nào được
trong xứ núi non này? Đường xá làm gì có. Chỉ có đi ngựa thôi. Đến như
cái cầu trên sông Đuyrăng ở Satô Acnu cũng còn khó khăn mới cho nổi
chiếc xe bò đi qua. Cái bọn cha cố đều như thế cả. Tham lam và keo bẩn.
Lão này lúc mới đến cũng làm ra vẻ chân tu lắm, nay thì cũng y như bọn
khác. Cũng đòi xe với kiệu! Cũng đòi xa hoa như các giám mục thời trước.
Gớm cho bọn tu hú này! Thưa bá tước, bao giờ hoàng đế trừ xong cho dân
ta cái nạn bọn áo dài đen này thì mọi sự mới được ổn thỏa. Đả đảo giáo
hoàng! (Khi ấy triều đình đang có xích mích với tòa thánh La-mã). Về
phần tôi, tôi chỉ biết có hoàng đế...”


Việc ấy trái lại, làm bà
Magơloa mừng rơn. Bà ta thì thào với cô Baptistin: “Có thế chứ! Đức cha
chỉ quen nghĩ đến người khác, nhưng rồi cũng phải nhớ đến mình chứ. Các
khoản làm phúc đã có đủ cả rồi. Ba nghìn phơrăng này là ba nghìn của
chúng ta đây”.


Ngay tối hôm ấy, ông giám mục đưa cho bà em tờ kê sau đây:

Chi tiêu về xe ngựa và lộ phí kinh lý trong hạt::

- Cấp cho nhà thương để nấu xúp thịt cho bệnh nhân 1.500 phơrăng
- Cấp cho hội dục anh ở Etxơ 250
- Hội dục anh Đraguynhăng 250
- Nhà nuôi trẻ bỏ rơi 500
- Nhà nuôi trẻ mồ côi 500

TỔNG CỘNG 3.000 phơrăng

Đó là ngân sách của ông Mirien.
Còn những khỏan thu bất
thường của tòa giám mục như hủy đăng ký kết hôn, miễn trừ, rửa tội tạm,
giảng kinh, công nhận nhà thờ, nhà nguyện, cưới xin... thì cần làm phúc
cho kẻ nghèo bao nhiêu ông ráo riết thu của người giàu bấy nhiêu.


Sau một thời gian ngắn, tiền
quyên cúng đem đến rất nhiều. Người có, kẻ túng đều đến gõ cửa nhà ông:
người này đến xin tiền mà kẻ kia vừa đem lễ. Thành ra chưa đầy một năm,
ông giám mục hóa ra người thủ quỹ chung của các nhà hảo tâm và phát
ngân viên của những người cùng khốn. Tính những món tiền qua tay ông
thật là nhiều. Vậy mà cách sống của ông vẫn không hề thay đổi, không hề
có thêm một khoản gì ngoài những tối cần thiết.

Hơn thế nữa, cũng vì trong
xã hội, ở dưới có nhiều cảnh khốn cùng mà ở trên thì ít có lòng bác ái,
nên có thể nói thường tiền cúng chưa kịp vào đã phải phát ra; như gió
vào nhà trống, tiền ông có thu vào mà chẳng bao giờ còn sót một đồng
dính tay. Thành thử ông phải dốc túi ra.


Theo tục lệ, trên giấy mà,
thư từ, các vị giám mục thường nêu tên thánh của mình. Nhân đó, những
đám dân nghèo trong xứ, vì lòng kính mộ tự nhiên, đã chọn trong các tên
và họ của ông, một tên theo họ là có ý nghĩa và chỉ gọi ông là Đức Cha
Biêngvơnuy. Chúng tôi bắt chước họ gọi ông như thế khi cần. Thực ra cách
xưng hô ấy làm ông vừa ý. – Tôi thích cái tên ấy, ông nói. Chữ
Biêngvơnuy làm cho chữ Đức Cha bớt cách biệt.


Chúng tôi không dám cho bức chân dung mô tả đây là thực, chúng tôi chỉ xin nói là nó giống.


III

GIÁM MỤC GIỎI THÌ ĐỊA PHẬN KHÓ





Ông giám mục không phải vì
đã đem tiền xe cộ ra làm phúc cả mà ít đi kinh lý. Cái xứ Đinhơ này quả
là một địa phận vất vả. Đồng bằng thì ít, núi non thì nhiều, đường sắt
hầu như không có, trên kia đã thấy rồi; lại đến ba mươi hai xứ, bốn mươi
mốt họ và hai trăm tám mươi lăm chi. Đi thăm hết thẩy bấy nhiêu là cả
một vấn đề. Ông giám mục vượt qua được tất cả. Gần thì ông đi bộ, đường
đồng bằng thì ông đi xe bò, leo núi thì ông ngồi ghế cho la thồ. Hai bà
già theo ông cho có bạn. Chuyến đi nào đối với các bà quá khó nhọc thì
ông đi một mình.


Một hôm, ông đi lừa đến
Xơnê, một thành phố xưa kia có tòa giám mục. Dạo ấy, túi tiền hầu như
rỗng không, ông không thể đi lại cách nào khác. Viên thị trưởng ra đón
ông ở cửa tòa giám mục và nhìn ông từ trên mình lừa bước xuống, ra vẻ
khó chịu. Có mấy tên nhà giàu cười khúc khich chung quanh. – “Thưa ông
thị trưởng và cả các ngài tư sản nữa, tôi hiểu vì sao các ông bực bội
rồi. Các ông cho là một thầy tu quèn phải hợm mình lắm mới cưỡi lừa như
đức Chúa Giêsu trước kia! Thưa thật với các ông, tôi không hề có ý kiêu
căng mà chỉ vì cần thiết quá”.


Trong các chuyến kinh lý,
ông tỏ ra rộng lượng và hiền hòa, chuyện trò nhiều hơn là thuyết pháp.
Ông không bao giờ đặt một đức tốt nào vào một chỗ mà không ai với tới
được. Ông cũng chẳng bao giờ phải tìm ra những lý lẽ và những hình mẫu
cho lời nói của mình. Nói chuyện với dân xứ này, ông nêu gương dân xứ
bên cạnh. Ở những tổng mà người ta hẹp lòng đối với kẻ túng bấn, ông
nói: - “Hãy xem người Briăngxông. Họ cho người nghèo, đàn bào góa, trẻ
mồ côi quyền được cắt cỏ ở các đồng cỏ của họ trước mọi người khác ba
ngày. Nhà cửa có bị đổ nát thì họ cất giùm lại cho, không lấy tiền. Vì
thế, xứ ấy là một xứ được Chúa ban ân. Suốt một thế kỷ, một trăm năm
nay, không hề có lấy một kẻ giết người”.


Ở những làng chỉ biết có
đồng tiền và hạt thóc, ông nói: - “Hãy xem người Ămbroong. Vào ngày mùa,
người nào có con trai tại ngũ, con gái bận công việc nhà nước ở trên
tỉnh, mà lại đau ốm hoặc gặp khó khăn, thì cha xứ đem ra nói với con
chiên vào lúc giảng kinh. Thế là, chủ nhật, xem lễ xong, hết thảy dân
làng, đàn ông, đàn bà, trẻ con kéo đến ruộng con người đáng thương nọ,
gặt hái hộ và mang cả thóc lẫn rơm rạ về tận nhà”. – Gặp những gia đình
chia rẽ vì chuyện tiền bạc và gia tài, ông bảo: - “Hãy trông dân vùng
núi Đơvơnuy, một vùng hoang dại đến nỗi năm mươi năm không nghe họa mi
hót một lần. Thế mà, bố chết, con trai liền đi tứ phương tìm kế sinh
nhai, còn của cải thì nhường lại cho con gái để con gái dễ kiếm chồng”. -
Ở các tổng ưa kiện tụng, có nhiều tá điền suy sụp vì chạy theo các thứ
đơn từ, ông nói: - “Hãy xem nông dân thung lũng Quâyra, họ rất thuần
hậu. Họ có ba nghìn người ở đó. Trời! Cứ như một nước cộng hòa nho nhỏ.
Họ chằng hề biết đến thẩm phán, mõ tòa là gì. Mọi việc, xã trưởng làm
tất. Ông phân bổ thuế khóa từng nhà theo lương tâm mình, giải quyết
không các vụ tranh chấp, chia hộ gia tài không lấy công, xử án không lấy
án phí và mọi người nghe theo vì ông ta là một người công minh sống
giữa những con người chất phác”. Đến những làng không thấy có thầy học,
ông cũng kể đến dân vùng Quâyra: - “Bà con có biết họ làm như thế nào
không? Thường một xóm mươi lăm nóc nhà thì không nuôi nổi một thầy học,
cho nên họ có những thầy giáo do cả xứ đài thọ, các thầy giáo đó đi hết
xóm này đến xóm nọ, một tuần nơi này, mươi ngày nơi kia, đến đâu dạy đó.
Các ông giáo hay đến các phiên chợ, tôi gặp họ ở đấy. Thấy họ dắt bút
lông ngỗng trên băng mũ thì nhận ra ngay. Ai chỉ dạy đọc thì một lông,
ai dạy đọc dạy tính thì hai lông, ai dạy đọc dạy tính dạy cả Latinh nữa
thì ba lông. Những vị đó là những nhà đại thông thái. Còn dốt nát thì
xấu hổ biết bao nhiêu! Bà con ta nên làm như người Quâyra”.


Ông nói chuyện như vậy,
nghiêm túc và chân tình, thiếu ví dụ sống thì dùng ngụ ngôn, đi thẳng
vào đích, ít lời mà nhiều hình ảnh: đó là lối hùng biện của Chúa Giêsu,
đầy tin tưởng và sức thuyết phục.
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:12 pm

IV


NÓI SAO LÀM VẬY


Ông
nói chuyện thân mật và vui vẻ. Sống với hai bà già suốt đời ở cạnh ông,
ông khéo chọn lối ăn nói cho vừa tầm họ. Khi ông cười, cái cười của ông
hồn nhiên như của một cậu học sinh.

Bà Magơloa thích gọi ông là Ông lớn. Một
hôm ông đang ngồi trên ghế, đứng dậy ra chỗ ngăn tủ tìm một quyển sách.
Sách để ở tận ngăn trên. Ông vốn thấp bé nên không với tới. Ông gọi bà
Magơloa bảo: Bà mang cho tôi cái ghế. Tôi tuy “lớn” nhưng vẫn không lớn tới tấm ván kia.

Ông
có một bà họ xa, bà bá tước Lô. Bà này không bao giờ bỏ lỡ dịp đem khoe
khoang trước mặt ông những cái mà bà gọi là những “ngưỡng vọng” của ba
cậu công tử con bà ta. Bà ta có những ông chú bà bác đã già lắm, lại vô
tự, gia tài, tước lộc, về sau thể tất về tay ba người con bà. Cậu út rồi
sẽ được hưởng đến mười vạn quan lợi tức của một bà cô; cậu thứ hai rồi
sẽ được ấm phong tước công của ông bác; cậu cả rồi sẽ được kế chân quốc
lão của ông nội. Ông giám mục thường vẫn ngồi lặng yên nghe câu chuyện
bà ta, coi đó là một cái tật vô hại của các bà hay khoe con. Duy có một
lần, trong khi bà ta đang kể đi kể lại tỉ mỉ những chuyện kế tự và những
“ngưỡng vọng” đó, thì ông giám mục trông có vẻ thẫn thờ hơn mọi bận. Bà
ta hơi bực mình, ngừng lại hỏi:

- Kìa ông anh. Ông đang nghĩ đi đâu thế?
-
Tôi đang nghĩ đến một câu sách cũng hơi kỳ, hình như trong sách của
thánh Ôguytstanh, như thế này: “Hãy đặt ngưỡng vọng của ta vào người nào
mà ta không thừa kế gì cả”.

Một
lần khác, ông nhận được tờ cáo phó của một nhà quí tộc trong xứ, trong
đó kê đặc cả một trang giấy những chức tước của người đã khuất, lại còn
la liệt những phẩm hàm chức tước của bọn con cháu họ hàng nữa. Ông bảo:
Cái chết thế mà khỏe lạ! Mang nhẹ nhàng cả một mớ nặng chức tước! Kể
người đời cũng tài thật, lợi dụng đến cả cái thây ma để khoe khoang hợm
hĩnh!

Đôi
khi ông có những lời giễu cợt nhẹ nhàng mà có ý nghĩa sâu sắc. Mùa chay
năm nọ có ông phó xứ trẻ tuổi lên tỉnh giảng thuyết ở nhà thờ lớn về
lòng từ thiện. Ông ấy giảng giải khá hùng hồn. Nội dung bài giảng là
lòng từ thiện. Ông tả cảnh địa ngục thật ghê rợn và tô điểm thiên đường
thành cảnh êm đẹp ai cũng thèm ước và ông khuyên người giàu nên bố thí
cho kẻ nghèo để được lên thiên đường, khỏi phải xuống địa ngục.

Trong
bọn người nghe có một nhà phú thương tên là Giêbôrăng, đã nghỉ kinh
doanh, song vẫn còn cho vay lãi nặng, trước đây chỉ chuyên dệt các loại
len, dạ mà kiếm được dăm chục vạn. Cả đời hắn chẳng bố thí cho ai bao
giờ. Từ hôm nghe giảng, chủ nhật nào cũng thấy hắn ném một xu cho mấy bà
lão ăn mày ở cửa nhà thờ. Một xu mà đến sáu người phải chia nhau! Một
hôm thấy lão ta đang làm phúc kiểu đó, ông mỉm cười bảo cô em:

- Kìa cô xem, ông Giêbôrăng đang mua một xu thiên đường đấy!
Trong
công việc từ thiện không bao giờ ông nản chí. Người ta có khăng khăng
từ chối, ông cũng tìm được lời hay, bắt người ta phải suy nghĩ. Lần nọ
ông khuyến quyên trong một phòng khách ở tỉnh. Một tay quý tộc đã già,
vừa giàu lại vừa kiệt, hầu tước Săngtecxiê, hôm ấy có mặt ở đấy. Hắn ta
vào loại nhân vật kỳ lạ mà một thời người ta đã thấy xuất hiện, vừa có
đầu óc bảo hoàng hơn vua, vừa có tư tưởng phóng khoáng hơn cả Vônte.
(Voltaire: một nhà văn và nhà triết học nổi tiếng thế kỷ XVIII ở nước Pháp, có tư tưởng tự do).

Khi
đến gần hầu tước, ông giám mục kéo tay hắn: “Hầu tước ạ, ngài phải cho
tôi cái gì mới được”. Hắn quay lại, trả lời nhạt nhẽo: “Thưa Đức Cha, tôi đã có kẻ nghèo của tôi”. Ông giám mục nói: “Thì hãy cho tôi những kẻ nghèo đó!”

Một hôm ở giáo đường, ông giảng đạo như sau:
“Các
giáo hữu, các bạn thân mến! Hiện nay ở nước Pháp có một triệu ba mươi
hai vạn cái nhà nông dân chỉ có ba cửa, một triệu tám trăm mươi bảy ngàn
nhà có hai cửa, một cửa ra vào, một cửa sổ và còn ba mươi tư vạn sáu
ngàn túp lều chỉ có một cửa là chỗ ra vào thôi. Cái đó là do một thứ mà
người ta gọi là thuế cửa. Bắt những gia đình nghèo từ già đến trẻ phải
chui rúc trong những ngôi nhà ấy thì tránh sao khỏi làm mồi cho sốt rét
và bệnh tật! Than ôi! Thượng đế đã cho người ta không khí để thở thì
luật pháp lại bắt họ phải mua! Tôi không kết án luật pháp, tôi chỉ tạ ơn
Chúa.

Trong
hạt Ide, hạt Varơ, trong hai xứ thượng, hạ Anpơ, nông dân không có đến
cả cái xe cút kít, họ phải cõng phân ra ruộng. Họ không có nến, họ phải
thắp bằng những que nhựa và những khúc dây thừng nhúng vào đầu nhựa.
Khắp miền núi xứ Đôphinê đều thế cả. Họ phải làm bánh ăn dự trữ sáu
tháng. Họ đốt lò bánh bằng phân bò phơi khô. Mùa đông, họ dùng rìu bổ
bánh, ngâm vào nước một ngày một đêm mới ăn được. Hỡi các giáo hữu! Hãy
mở lòng nhân! Hãy xem chung quanh các bạn người ta khổ như thế nào”.

Vốn sinh ở Provăngxơ, ông rất dễ làm quen với các thổ âm miền Nam. Khi cần ông có thể nói: “Eh bé! Moussu, sès sagé?” như người Lănggơđốc hạ, “Onté anaras passa” như người hạ Anpơ, cũng như “Puerte un bouen montou embe un bouen froumage grase”
như người ở Đôphinê thượng. Điều đó làm dân chúng thích và giúp ông gần
gũi mọi người khá nhiều. Vào nhà tranh vách đất hay lên chỗ núi non,
ông cũng tự nhiên thoải mái như ở nhà mình. Nói những điều cao cả nhất
ông cũng nói được bằng những lời lẽ thông tục nhất. Nói năng như mọi
người nên cũng đi được vào lòng tất cả.

Tuy vậy, đối với hạng thượng lưu cũng như đối với dân chúng ông vẫn là một.
Ông
không bao giờ buộc tội một cách vội vã mà không tính đến hoàn cảnh xung
quanh. Ông nói: - Phải xét xem tội lỗi đã đi tới bằng con đường nào.


vui vẻ tự cho mình là nguyên tội nhân, ông không thể nghĩ đến một kiểu
dốc cheo leo nào của chủ nghĩa khắc nghiệt và không cau mày nhăn mặt như
những ông thiện, ông ác, ông chỉ lớn tiếng truyền bá một học thuyết có
thể tóm tắt như sau:

“Con người ta có thể xác, nó vừa là gánh nặng vừa là nguồn quyến rũ. Con người kéo lê thể xác nhưng cũng chiều nể nó.
Phải
trông coi, uốn nắn, trấn áp, cùng kế lắm mới nghe theo nó. Nghe theo
như vậy cũng còn có thể có tội; nhưng làm được như thế thì tội cũng nhẹ.
Ngã, nhưng là ngã quì thì còn có thể chuyển sang cầu nguyện.

Thành
thánh thì ngoại lệ; thành người chính trực là qui tắc. Lầm lạc, sa ngã,
phạm tội cũng được, nhưng phải là người chính trực.

Càng ít tội lỗi càng tốt, đó
là luật của người. Không tội lỗi nào cả, đó là mơ ước của thiên thần.
Đã thuộc trái đất này thì thoát sao khỏi tội lỗi. Tội lỗi cũng như luật
hấp dẫn, chi phối mọi người.”
Có lúc ông thấy mọi người gào thét dữ tợn và phẫn nộ quá nhanh:
-
Ồ! Ồ! – Ông vừa cười vừa nói – rõ ràng đấy là một tội ác lớn mà mọi
người đều mắc phải. Đó chính là những kẻ đạo đức giả bị kinh động nên
vội vàng phản kháng để che thân.

Đối
với đàn bà và dân nghèo là những kẻ chịu nhiều áp bức xã hội nhất, ông
rất độ lượng. Ông bảo: “Tội lỗi của đàn bà, của con trẻ, của kẻ tôi tớ,
của người yếu hèn, của đám nghèo khổ và dốt nát, chính là tội lỗi của
những bậc làm chồng, làm cha, làm chú, những kẻ quyền thế, những người
giàu có và có học thức”.

Ông lại nói:
“Phải
cố gắng dạy cho người không biết, càng nhiều điều càng hay. Xã hội mà
không thực hiện được giáo dục không mất tiền là xã hội có lỗi. Nó phải
chịu trách nhiệm về tình trạng tăm tối do nó sản sinh. Con người tối tăm
mới gây ra tội lỗi. Cho nên kẻ có tội không phải là người đã lầm lỗi mà
chính là kẻ đã gây nên tối tăm”.

Ông đã có một lối xét đoán sự việc theo cách riêng của mình, khá lạnh lùng như thế đấy. Tôi ngờ là ông đã học ở sách Phúc âm.
Một
hôm ông được nghe kể ở phòng khách một trường hợp đã thẩm cứu và sắp
đem xử. Có một người đàn ông khốn khổ, vì thương người bạn tình của mình
và đứa con mà chị đã có với anh ta, và cũng quẫn quá, nên làm bạc giả.
Thuở ấy luật pháp còn xử những người làm bạc giả vào tội tử hình. Người
đàn bà vừa mang đi tiêu thụ đồng bạc giả đầu tiên do người yêu làm ra
thì bị bắt. Tóm chị nhưng cũng chỉ có tang chứng đối với chị mà thôi.
Chỉ khi nào chị ta xưng thú thì người yêu của chị mới mắc vòng pháp
luật. Chị chối. Người tra gạn. Chị cũng một mực chối cãi. Bấy giờ viên
biện lý nghĩ ra được một kế. Hắn bày đặt một câu chuyện phụ tình và khéo
nhặt nhạnh chắp nối một ít mẩu thư từ đưa ra khiến cho người đàn bà
khốn nạn kia tưởng mình bị người yêu dối lừa thật. Nổi cơn ghen cùng
cực, chị ta khai hết, thú hết với đủ mọi chứng cứ. Vì thế mà người đàn
ông bị bắt và nay mai sẽ bị đem ra xử ở Etxơ cùng với đồng lõa. Người ta
thuật chuyện và trầm trồ khen ngợi viên biện lý có tài vận dụng lòng
ghen tuông để phục vụ công lý. Ông giám mục im lặng ngồi nghe, cuối cùng
mới hỏi:

- Người ta đem xử người đàn ông và người đàn bà ấy ở đâu?
- Ở tòa đại hình.
Ông hỏi thêm:
- Thế còn viên biện lý thì xử ở đâu?

Đinhơ xảy ra một việc bi thảm. Một người bị xử tử hình vì can tội sát
nhân. Người bất hạnh ấy không hẳn là người có học mà cũng không hẳn dốt
nắt, hắn ta từng làm trò ở chợ và làm thầy ký viết thuê. Vụ án làm thành
phố khá bận tâm. Trước ngày hành hình, cha tuyên úy nhà ngục bị ốm. Cần
một cha cố để giúp đỡ tội nhân trong những phút cuối cùng. Người ta
chạy tìm cha xứ. Ông này hình như từ chối: “Việc đó liên quan gì đến
tôi. Tôi cần gì cái việc khổ sai đó và cái tên xiếc khỉ ấy! Tôi, tôi
cũng ốm đây: với lại, chỗ tôi không phải ở đấy”. Người ta đem câu trả
lời ấy thuật lại với ông giám mục, ông nói: - “Ngài cha xứ nói đúng. Không phải chỗ của ngài đâu, của tôi đấy”.

Lập
tức ông tới nhà ngục, xuống buồng giam của “tên xiếc khỉ”, ông gọi tên
người ấy, cầm tay hắn và nói chuyện. Cả ngày lẫn đêm ông ở cạnh hắn,
quên ăn quên ngủ, chỉ cầu xin Chúa cứu vớt linh hồn cho người bị tội và
cầu xin người bị tội tự lo cứu vớt lấy linh hồn mình. Ông nói hắn nghe
những chân lý tốt đẹp nhất mà cũng là giản dị nhất. Như một người cha,
một người anh, một người bạn; còn giám mục là chỉ để ban phúc mà thôi.
Ông dạy hắn đủ điều, đem lại cho hắn vừa lòng tin vừa sự an ủi. Trước
hắn nghĩ chết tuyệt vọng. Cái chết đối với hắn như một vực sâu; run rẩy
trước cái bờ u thẳm ấy, hắn lùi lại kinh hoàng. Hắn không tối tăm quá để
đến nỗi tuyệt đối dửng dưng. Bản án làm chấn động sâu xa, chừng như đã
xô vỡ từng chỗ chung quanh hắn cái bức tường ngăn cách chúng ta với cõi
bí mật của mọi vật mà chúng ta gọi là cuộc sống. Từ những lỗ thủng tai
hại ấy, hắn không ngớt nhìn ra thế giới này và chỉ thấy toàn bóng tối.
Ông giám mục đã đem lại cho hắn ánh sáng.

Hôm
sau, lúc người ta đến tìm nạn nhận, ông giám mục có mặt và đi theo hắn.
Quần chúng thấy ông mặc áo choàng tím, đeo thánh giá giám mục, đi bên
cạnh người khốn khổ bị trói. Ông cùng hắn bước lên xe bò, ông cùng hắn
bước chân lên máy chém. Hôm qua hắn âu sầu rũ rượi hết sức mà hôm nay
thì mặt mày lại rạng rỡ. Hắn cảm thấy linh hồn được trở về với Chúa và
hắn hy vọng ở Chúa. Ông ôm hôn hắn và lúc lưỡi dao sắp rơi, ông bảo: “-
Kẻ bị loài người giết chết, Chúa Trời sẽ cho sống lại; kẻ bị anh em xua
đuổi sẽ gặp lại được Cha. Cầu nguyện đi, tin đi và bước vào cuộc hằng
sống! Đức Chúa Cha đang ở đó”. Khi ông bước từ máy chém xuống, trong mắt
ông có cái gì làm cho mọi người phải tránh ra, đứng ngay ngắn lại.
Không biết cái gì đáng kính phục hơn cả, da mặt trắng bệch hay vẻ người
trong sáng! Trở về ngôi nhà tầm thường mà ông gọi là lâu đài của mình, ông nói với bà em: “Tôi vừa làm lễ một cách long trọng”.

Việc
cao cả thường là việc ít được người hiểu, cho nên trong thành phố có kẻ
bình luận hành động của ông giám mục, lại cho rằng ông ấy đóng kịch
thôi. Thực ra đó chỉ là câu chuyện phòng khách. Còn dân chúng thì vốn
không có ác ý nghi ngờ các hành vi thiêng liêng, họ lấy làm cảm kích và
hết sức kính phục.

Về phần ông giám mục, nhìn thấy máy chém làm ông xúc cảm đột ngột, khiến ông khá lâu mới hồi tỉnh được.
Đúng
là cái máy chém, khi nó đã ở đó, dựng lên và đứng sững, thì nó có cái
gì ám ảnh người ta thật. Thường người ta có thể có chút gì bàng quan với
tử hình, chẳng có ý kiến gì, phải cũng được mà không cũng được, chừng
nào chưa thấy tận mắt một cái máy chém. Nhưng nếu đã gặp rồi thì xúc
động thật là mãnh liệt, phải quyết định dứt khoát đứng về phía này hay
phía kia. Kẻ thì ca ngợi như Đơ Metstơrơ; người thì nguyền rủa như
Beccaria. Máy chém là sự kết tụ của luật pháp, là sự trừng trị;
không trung lập và không cho phép ai trung lập. Ai thấy nó đều lên một
cơn run bí ẩn nhất. Mọi vấn đề xã hội đều dựng lên bao nhiêu dấu hỏi
chung quanh lưỡi dao của nó. Máy chém là một ảo tưởng. Máy chém không
phải là một giá gỗ, máy chém không phải là một cỗ máy, máy chém không
phải là một thứ máy móc cứng đờ bằng gỗ, sắt và dây. Hình như nó là loại
sinh vật có một cái gì như một sáng kiến đen tối. Hình như cái giá gỗ
ấy biết nhìn, cái cỗ máy ấy biết nghe, cái máy móc ấy biết hiểu, các thứ
gỗ, sắt, dây ấy đều có ý chí. Trong cơn ác mộng do sự có mặt của nó
gieo vào tâm hồn con người, máy chém hiện ra dữ tợn, tự nhúng tay vào
công việc nó làm. Nó là đồng lõa với đao phủ; nó ăn người; nó nuốt thịt
sống, nó uống máu tươi. Máy chém như một loài quái vật do thẩm phán và
thợ mộc dựng lên, một bóng ma sống một cách đáng sợ bằng những cái chết
nó tạo ra.


thế ấn tượng của nó ở trong tâm trí ông giám mục thật là ghê rợn và sâu
xa. Hôm sau ngày hành hình và nhiều hôm sau đó nữa, ông như thất thần.
Dáng thanh tĩnh gần như mãnh liệt của phút giây bi thảm đã biến mất;
bóng ma của công lý xã hội ám ảnh người ông. Con người mà thường ngày đi
hành đạo với vẻ bằng lòng rạng rỡ trên mặt, lần này hình như có ân hận.
Có lúc, ông tự nói với mình và lúng túng thì thầm từng tràng độc thoại
ảo não. Đây là một trong những độc thoại ấy bà em đã nghe được một buổi
tối và ghi lại:

“Ta
không ngờ việc ấy lại ghê rợn đến thế. Để hết tâm trí vào luật lệ của
Chúa đến mức không còn nhìn thấy luật lệ của người đời nữa thì thật là
sai lầm. Cái chết chỉ thuộc quyền Chúa. Quyền gì mà loài người động chạm
đến cái việc không một ai được biết ấy?”

Với
thời gian những cảm tưởng ấy mờ dần và chắc rồi phai hẳn. Tuy vậy,
người ta vẫn để ý thấy ông giám mục, từ đó, tránh đi qua chỗ pháp
trường.

Nhà
có người ốm và người hấp hối thì lúc nào cho mời ông Mirien cũng được.
Ông biết đó là nhiệm vụ và công việc quan trọng nhất của ông. Gia đình
nào vợ góa con côi thì không cần mời, ông cũng đến. Ông khéo ngồi im
lặng hàng giờ bên người chồng mất vợ, hay bên người mẹ vừa mới chết con.
Ông khéo biết lúc nào nên im lặng và cũng biết lúc nào cần phải nói.
Ông an ủi người ta mới tài tình làm sao! Ông không tìm cách làm cho
người ta quên đau thương mà làm cho người ta hy vọng, vì hy vọng khiến
cho đau thương trở nên cao cả và đáng kính. Ông thường nói: “Đối với
người quá cố, khéo chẳng lại thành ra bất kính. Đừng có nghĩ đến cái thể
chất đang thối nát mà hãy nhìn trực thị trời xanh, ở đấy có ánh hào
quang lấp lánh của người đã khuất”. Ông biết rằng đức tin là lành, nên
ông thường nêu gương nhẫn nại để an ủi người thất vọng và ông tìm cách
biến sự đau khổ tuyệt vọng hướng về mộ địa, thành sự đau khổ tin tưởng
nhìn lên trời cao.


V


ĐỨC CHA BIÊNGVƠNUY DÙNG ÁO LÂU QUÁ


Đời
tư của ông Mirien cũng cùng chung một số nguyên tắc như đời công. Với
kẻ được xem gần thì cái nghèo tự nguyện trong cuộc sống của ông giám mục
thành Đinhơ là một cảnh tượng trang trọng và đáng yêu.

Như
người già và phần lớn những người hay suy tưởng, ông ít ngủ, nhưng lại
ngủ say. Buổi sáng ông tĩnh tọa một giờ rồi đi làm lễ, hoặc ở nhà thờ
lớn hoặc ở phòng nguyện trong nhà. Lễ xong, ông ăn sáng một cái bánh mì
bằng bột tiểu mạch dúng trong sữa bò nhà. Sau đó ông bắt đầu làm việc.

Làm
giám mục bận rộn thật. Thường xuyên ông phải tiếp vị bí thư của tòa
giám mục, thường là một chức sắc và hầu như ngày nào cũng phải gặp các
phó giám mục. Ông còn phải kiểm tra công việc các hội, phân phát các đặc
ân này nọ, xem xét cả một thư viện nhà chung, nào sách xem lễ, nào sách
bổn, sách kinh... rồi thảo các thư từ hành đạo, chuẩn y các bài thuyết
pháp, giải hòa các vụ xích mích giữa cha xứ và xã trưởng, rồi còn một mớ
thư từ giao dịch về phần đạo, về phần đời, một bên là nhà nước, một bên
là tòa thánh, thôi thì trăm công nghìn việc.

Thì
giờ còn lại ngoài những công việc bề bộn ấy và những buổi lễ, những giờ
đọc kinh, dành cho kẻ khó, người ốm đau, sầu muộn, còn thừa ông dùng
vào lao động. Khi thì ông cuốc đất trong vườn nhà, khi thì ông đọc và
viết. Hai công việc nhưng ông chỉ dùng một tên gọi: làm vườn. “Trí óc cũng là một cái vườn”, ông nói.

Đến trưa, ông ăn cơm. Bữa trưa cũng giống như bữa sáng.
Quãng
hai giờ chiều, hôm trời tốt, ông ra khỏi nhà, dạo xem phong cảnh thôn
dã hoặc phố phường, nhiều lúc ghé thăm các túp lều tranh. Ông đi một
mình suy nghĩ trầm ngâm, mắt nhìn xuống, tay chống gậy dài, trên mình
chiếc áo lụa lót bông ấm, màu tím, dưới chân đôi giày thô với bít tất
tím và trên đầu chiếc mũ dệt có ba góc để thòng xuống ba quả găng vàng
viền hạt cườm.

Chỗ
nào ông có mặt cũng vui như hội. Có thể nói ông đi qua ở đâu là đem
theo đó một cái gì ấm áp và sáng sủa. Trẻ con, người già dắt nhau ra tận
cửa đón ông giám mục cũng như đón ánh mặt trời. Ông ban phúc cho mọi
người và mọi người cầu phúc cho ông. Bất kỳ ai có cần việc gì, người ta
đều chỉ đến nhà ông.

Chốc
chốc ông dừng chân, hỏi chuyện các em bé, mỉm cười với các bà mẹ. Trong
túi hễ còn tiền thì ông đến thăm kẻ khó; không còn đồng nào thì ông đến
thăm các nhà giàu.

Mấy
cái áo thụng ông giữ dùng rất lâu nhưng lại không muốn người ngoài
trông thấy điều đó, nên ra phố ông không bao giờ mặc gì khác ngoài cái
áo lụa lót bông màu tím. Cái đó cũng có chút bất tiện cho ông lúc mùa
hè.

Buổi
tối, tám giờ rưỡi thì ông ăn cơm tối với bà em, bà Magơloa đứng đàng
sau phục vụ cho cả hai. Bữa ăn cực kỳ thanh đạm. Tuy vậy, nếu ông giám
mục giữ một cha xứ lại dùng cơm tối thì bà Magơloa nhân cơ hội đó dọn
cho Đức Cha một món cá sông tuyệt vời hay một món thịt rừng đặc biệt.
Bất kỳ cha xứ nào cũng là một cớ ăn tươm; ông giám mục biết nhưng để
mặc. Những ngoại lệ ấy trừ ra, bữa cơm thường chỉ có rau củ và canh nấu
với tí mỡ. Do đó hàng phố người ta bảo: Khi ông giám mục không ăn cơm cha xứ, thì ông ăn cơm người khổ tu.

Ăn
tối xong, ông chuyện trò vói cô Baptistin và bà Magơloa độ nửa tiếng,
xong ông về buồng mình và lại viết, khi thì trên giấy rời khi thì ở rìa
một trang sách nào đó. Ông là người hay chữ và ít nhiều thông thái. Ông
còn để lại năm sáu bản thảo khá lạ, trong đó có một thiên biện luận về
đoạn Sáng thế: Ban sơ tinh thần Chúa bồng bềnh trên mặt nước. Ông đối chiếu với ba bản khác: bản tiếng A-rập thì viết: Bốn phương gió Chúa thổi; bản Phơlaviuyt Giôdep thì chép: Một ngọn gió từ Chúa đến, thổi qua mặt nước.
Trong một thiên biện luận khác, ông nhận xét về các công trình thần học
của Huygô, giám mục ở Ptôlêmai, ông chú cố của kẻ viết sách này và ông
chứng minh nhiều tiểu phẩm khác nhau xuất bản thế kỷ trước, dưới bút
danh Baclâycua, là của vị giám mục này viết.


khi đang đọc sách, bất cứ là sách gì, bỗng dưng ông trầm tư rồi tỉnh lại
để ghi vài dòng ngay vào trang sách đó. Những dòng này thường chẳng
liên quan gì đến cuốn sách. Trước mắt chúng tôi có một đoạn ghi chép ở
rìa cuốn sách nhan đề: Thư tín của ngài Giecmanh trao đổi với các
tướng Cơlintơn, Cornoalit và các đô đốc của trạm châu Mỹ. Ở Vécxây, hỏi
ông Poangxô, hàng sách và ở Paris, hỏi ông Pítsô, hàng sách, bến
Ôguytstanh.

Đoạn ghi chép đó như sau:
“Ôi đấng đang tồn tại:
Người
của nhà thờ gọi Người là Quyền lực vô thượng, người Măccabê xưng Người
là tạo hóa, Luận thư cho người Ephe lại gọi Người là Tự do, Baruysơ gọi
Người là Vô biên, Thánh ca gọi Người là Đạo đức và chân lý, thánh Giăng
gọi Người là Ánh sáng, các Vua gọi Người là Chúa thượng, thiên Di cư
xưng Người là Cứu thế, người Lêvi xưng Người là Thánh nhân, Etđơrat xưng
Người là Chính trực, sự sáng tạo gọi Người là Chúa Trời, người đời gọi
Ngườ là Cha. Nhưng Xalômông thì gọi Người là Thương xót và đó là tên đẹp
nhất trong mọi tên của Người”.

Đến chín giờ tối hai bà già cáo lui và lên buồng riêng trên gác, chỉ còn một mình ông giám mục ở dưới nhà.
Đến đây cần cho mọi người có một ý niệm chính xác về chỗ ở của ông giám mục.

VI


ÔNG MIRIEN GIAO NHÀ CHO AI GIỮ


Chúng
tôi đã giới thiệu nhà ông giám mục ở có một tầng dưới và một tầng gác.
Nhà dưới ngăn làm ba, trên gác có ba phòng và trên nữa là gác xép. Sau
nhà là một mảnh vườn nhỏ mấy thước. Hai người đàn bà ở tầng trên. Ông ở
tầng dưới. Phòng ngoài trông ra phố là buồng ăn; phòng thứ nhì là buồng
ngủ; phòng thứ ba là phòng nguyện. Ở phòng nguyện muốn ra ngoài phải qua
buồng ngủ và từ buồng ngủ muốn ra ngoài phải qua buồng ăn. Trong phòng
nguyện có một ngăn đóng kín, kê một chiếc giường phòng khi có khách. Mỗi
lần các cha xứ ở địa phương ra tỉnh có việc, ông giám mục vẫn mời vào
ngủ ở đó.

Ngôi nhà ngang nhỏ trong góc vườn, trước dùng làm kho thuốc cho nhà thương, nay sửa thành bếp và buồng chứa rượu.
Lại
còn có chuồng bò nguyên là bếp của nhà thương trước kia. Ông giám mục
nuôi được hai con bò cái, mỗi ngày vắt sữa được ít hay nhiều, ông đều xẻ
ra một nửa đưa sang bên nhà thương cho bệnh nhân. Ông bảo: “Đây là phần tô của tôi nộp”.

Phòng
ngủ của ông có phần quá rộng, mùa rét khó mà đốt lò sưởi cho đủ ấm. Ở
Đinhơ củi đắt lắm, nên ông nghĩ ra một cách là ngăn bớt chuồng bò thành
một gian có vách bằng gỗ ván che kín. Hôm nào lạnh quá, ông xuống ở đó
và gọi đó là phòng khách mùa đông.

Trong
“phòng khách” ấy cũng như trong buồng ăn, đồ đạc chỉ có chiếc bàn vuông
gỗ tạp và bốn chiếc ghế độn rơm. Buồng ăn còn có thêm chiếc tủ bát đĩa
đã cũ sơn màu hồng nhạt. Phòng nguyện cũng có cái tủ như thế phủ những
khăn trắng và diềm đăng-ten giả, tạm coi được, ông dùng làm án thờ.

Các
bà nhà giàu đến xưng tội và các bà từ thiện trong thành phố đã nhiều
lần chung tiền nhau đưa Đức Cha sắm một bộ bàn thờ mới cho phòng nguyện,
nhưng lần nào nhận tiền ông cũng đem làm phúc cho kẻ nghèo tất cả. Rồi
ông bảo: “Cái bàn thờ đẹp nhất là linh hồn kẻ khốn khổ được cứu giúp
đang cảm tạ Chúa”.

Trong
phòng nguyện có hai cái ghế nguyện độn rơm và bên phòng ngủ cũng có cái
ghế bành độn rơm. Nhỡ khi phải tiếp một lúc bảy tám người khách, ông
tỉnh trưởng hay tướng chỉ huy khu, hoặc ban tham mưu của trung đoàn trú
phòng hay một số học sinh tiểu chủng viện thì lại phải xuống chuồng bò
lấy ghế ở “phòng khách mùa đông”, vào phòng nguyện lấy ghế nguyện và vào
cả phòng ngủ lấy chiếc ghế bành. Làm thế cũng có được đến mười một ghế
cho khách ngồi. Có điều mỗi lần có khách đến thêm lại phải khuân rỗng
một phòng.


khi cả chủ và khách đến những mười hai người, tình thế thực là khó xử.
Để khỏi lúng túng, nếu nhằm mùa rét thì ông đến đứng trước lò sưởi, còn
mùa hè thì ông mời khách ra vườn dạo một vòng.

Trong
buồng ngăn dành để khách ngủ, cũng còn một chiếc ghế nữa đấy, nhưng nó
đã lòi cả rơm và chỉ còn có ba chân, phải để tựa vào tường mới ngồi
được. Còn chiếc ghế tựa lớn bằng gỗ, xưa vốn thiếp vàng và bọc vải hoa, ở
phòng cô Baptistin, thì vì cầu thang hẹp quá không đi lọt, trước phải
đưa nó lên qua cửa sổ, nên không thể mỗi lúc cần đến lại khuân lên khuân
xuống.


Baptistin chỉ mong ước làm thế nào sắm được cho ông anh một bộ bàn ghế
tiếp khách bằng gỗ đào hoa tâm có bành tựa dáng cổ ngỗng và bọc bằng
nhung vàng hoa tròn, có đủ cả tràng kỷ. Nhưng bộ đồ như thế giá ít nhất
cũng năm trăm phơrăng, mà suốt năm năm trời cô chỉ dành dụm được có bốn
mươi hai phơrăng mười xu, nên cuối cùng phải bỏ qua chuyện đó. Thôi cũng
đành vậy, vì ở đời dễ mấy ai đã được như nguyện?

Buồng
ngủ của ông giám mục thì không có gì dễ hình dung hơn! Một cái cửa sổ
lớn trông ra vườn. Ngay chỗ cửa sổ là giường ngủ, một thứ giường sắt của
nhà thương, trên có diềm màn bằng vải xanh. Trong bóng tối chiếc
giường, sau một tấm màn, có vài thứ đồ dùng quen để trang điểm, nhìn đến
còn biết được những thói quen làm dáng của con người thanh lịch trước
kia. Hai cửa thông, một cái gần lò sưởi đi sang phòng nguyện, một cái
gần tủ sách sang buồng ăn. Tủ sách là một chiếc tủ kính chứa đầy sách.
Lò sưởi bằng gỗ sơn giả đá hoa chẳng mấy khi đốt lửa, trong lò sưởi một
đôi giá đỡ củi bằng sắt trang hoàng bằng đôi lọ viền hoa và xoi con
lươn, xưa kia từng dát bạc, theo cách làm sang của các tòa giám mục;
phía trên, ở chỗ thường đặt gương soi, một cây thánh giá bằng đồng, lớp
bạc mạ ngoài đã bong gần hết, gắn vào một miếng nhung đen đã sờn trong
một khung gỗ sơn màu đã bạc. Gần cửa sổ lớn một chiếc bàn rộng với lọ
mực, cất giấy má lộn xộn và nhiều cuốn sách dày cộp. Trước bàn, chiếc
ghế bành độn rơm. Bên giường, một chiếc ghế cầu kinh mượn của phòng
nguyện.

Hai
bức chân dung đóng khung bầu dục treo trên vách ở hai bên giường. Cứ
theo dòng chữ vàng nhỏ chua trên nền vải bên cạnh hình vẽ thì các bức
chân dung này một là của tu viện trưởng Sahô, giám mục ở Xanh Cơlốt, còn
cái kia là của tu viện trưởng Tuốctô, giám mục dự khuyết ở Acđơ, viện
trưởng ở Gơrăng Săng, dòng Xitô ở địa phận Sactơrơ. Ông giám mục tiếp
thu buồng này của các bệnh nhân nhà thương, đã thấy sẵn các bức chân
dung ấy ở đây và cứ để nguyên chỗ cũ. Họ là nhà tu hành, chắc cũng là
những ân nhân đã tư trợ bệnh viện, vậy thì có hai lý do để ông giữ
nguyên các bức chân dung ấy. Tất cả những gì ông có thể biết về hai nhân
vật ấy là họ đều do nhà vua cử về nhậm chức vụ của mình vào cùng một
ngày, 27 tháng 4 năm 1785. Nhân bà Magơloa hạ các bức vẽ ấy để lau bụi,
ông giám mục mới đọc được các chi tiết đặc biệt ấy ghi bằng một thứ mực
trắng tráng trên một vuông giấy con lâu ngày đã ngả màu vàng, dán chặt
bằng bốn mẩu xi sau lưng bức chân dung của viện trưởng Gơrăng Săng.


cửa sổ, một bức màn xưa bằng len to sợi lâu năm đã thành quá cũ nát,
nhưng để đỡ phải thay tấm mới tốn tiền, bà Magơloa buộc lòng phải khâu
mấy đường dài ngay chính giữa. Đường khâu lại hình chữ thập. Ông giám
mục hay chỉ mọi người xem. – Cái này hay quá! – Ông nói.
Từ
dưới lên trên, buồng nào cũng quét vôi trắng như kiểu nhà thương và
trại lính. Tuy vậy, những năm gần đây, bà Magơloa lại tìm ra, dưới lớp
giấy quét vôi, những bức tranh sơn trang trí cho phòng cô Baptistin, -
tìm ra như thế nào thì về sau sẽ rõ. Nhà này vốn là câu lạc bộ của bọn
tư sản trước khi thành nhà thương, do đó mới có sự trang trí như vậy.

Các
buồng lát gạch đỏ, tuần nào cũng cọ rửa. Trước các giường có những thảm
rơm bện. Nói chung, trong nhà thờ có hai tay người đàn bà nên chỗ nào
cũng sạch như chùi. Chỉ có mỗi lối xa hoa ấy là ông giám mục cho phép
thôi. Ông nói: “Như vậy không thiệt cho kẻ nghèo đồng nào”.

Tuy
nhiên cũng biết là ông giám mục còn giữ được trong số của cải xưa một
bộ đồ ăn sáu người bằng bạc và chiếc môi xúp lớn. Hàng ngày bà Magơloa
sung sướng ngắm bộ đồ bạc choáng lộn trên chiếc khăn bàn lớn bằng vải
trắng. Ở đây định tả ông hệt như ở ngoài, nên phải thêm rằng đã nhiều
lần ông thú thật: “Duy có thói quen dùng đồ bạc mà ăn là ta khó chừa”.

Nói
đến bộ đồ bạc ấy thì phải kể thêm đôi cây đèn đúc đặc bằng bạc là của
thừa tự của một bà cô để lại. Đôi cây đèn ấy thường xuyên có cắm hai cây
nến sáp và bày trên lò sưởi trong phòng ông. Hôm nào có khách ăn cơm,
bà Magơloa thắp đôi nến và mang bày ra bàn ăn.

Trong
phòng ngủ của ông giám mục, ngay chỗ đầu giường có một cái ô tường nhỏ,
mỗi tối bà Magơloa đem bộ đồ ăn và chiếc môi cất vào đó. Ô tường có
khóa, nhưng chẳng bao giờ cất chìa khóa đi cả.

Mảnh
vườn vì có những ngôi nhà nói trên dựng không đẹp mắt lắm nên cũng mất
cả vẻ mỹ thuật. Vườn có lối đi ngang dọc hình chữ thập, giữa có bể cạn.
Chung quanh có lối đi vòng theo bức tường vôi. Giữa các lối đi là bốn
khỏanh đất vuông chung quanh trồng hàng giậu xanh. Ba khoảnh bà Magơloa
trồng rau, khoảng thứ tư ông giám mục trồng hoa. Đây đó lại còn có một
vài cây ăn quả.

Có lần bà Magơloa bảo ông một cách tinh nghịch:
-
Thưa Đức ông, cái gì Đức ông cũng tính cho thật có lợi, thế mà vuông đất
này thì phí quá! Thà để kiếm mớ rau còn hơn là những bó hoa.

Ông trả lời:
- Bà Magơloa, bà lầm rồi! Cái đẹp cũng có ích như cái có ích khác.
Im một lát, ông lại thêm: “Có lẽ còn có ích hơn”.
Mảnh
đất gồm chừng ba bốn luống, nhưng ông giám mục cũng bận rộn với nó như
với sách vở của mình. Ông sẵn sàng ra đấy một vài giờ, hết cắt lại cào
rồi từng quãng lại chọc lỗ, tra hạt. Ông không đủ thù ghét sâu bọ như
một người làm vườn mong muốn. Nói cho đúng, ông chẳng có tham vọng gì về
khoa thực vật. Ông không biết nhóm nọ, thuyết kia, ông cũng không hề
nghĩ đến việc phải quyết định theo Tuốcnơpho hay theo phương pháp tự
nhiên. Ông không đứng về phía những thông nang để chống phía những tử
diệp, mà cũng không đứng về phe Giuytxiơ để chống Linnê. Ông chẳng
nghiên cứu gì cây cỏ, ông chỉ thích hoa. Ông rất kính trọng người thông
thái, ông còn kính trọng kẻ ngu dốt nhiều hơn và trong khi luôn thủ lễ
với hai đối tượng ấy, mỗi chiều hè ông lại tưới các luống cây của mình
với cái thùng tưới sắt tây sơn màu xanh.

Trong
nhà ông không hề có cái cửa nào có khóa. Cửa phòng ăn thông ngay ra
trước nhà thờ, ngày xưa vẫn chằng chịt then sắt, khóa sắt như cửa nhà
tù. Ông giám mục sai tháo hết những then khóa sắt ấy đi. Từ đó, ngày đêm
chỉ cài bằng chiếc cựa gà. Ai qua đường bất cứ vào giờ nào, muốn vào,
cứ đẩy cửa ra là được. Lúc mới đến ở, hai người đàn bà cứ lo ngay ngáy
về cái cửa lúc nào cũng bỏ ngỏ ấy. Nhưng ông giám mục bảo: “Nếu các bà
thích vậy thì cứ đặt lấy then sắt vào cửa buồng của các bà”. Hai bà đành
phải tin tưởng như ông, hay ít ra cũng làm ra vẻ tin tưởng như ông. Duy
có bà Magơloa đôi khi còn hốt hoảng. Về phần ông giám mục thì ý nhĩ của
ông đã diễn tả hay ít nhất cũng ghi rõ trong ba dòng chữ chính tay ông
viết bên rìa một trang thánh kinh: “Chỉ khác nhau tí này thôi; cửa nhà
thầy thuốc thì không bao giờ được đóng, còn ở cửa nhà tu hành thì bao
giờ cũng phải để ngỏ”.

Trong một cuốn sách khác nhau đề là “Triết lý y học”,
ông có ghi: “Ta chẳng phải là người thầy thuốc như họ sao? Ta cũng có
những người khách bệnh đấy chứ. Trước hết là khách của họ mà họ gọi là
những người ốm đau; sau nữa là khách riêng của ta mà ta gọi là những
người khốn khổ”.


chỗ khác ông lại còn viết: “Đừng nên hỏi tên họ kẻ đến xin ngủ nhờ nhà
ta, phần nhiều kẻ lúng túng về cái tên của mình mới cần có chỗ trọ”.

Một
hôm có một cha xứ đáng kính, không nhớ rõ là cha ở Kulubru hay cha ở
Pôngpieri, chắc là do bà Magơloa xui, đánh bạo hỏi ông giám mục rằng để
nhà cửa bỏ ngỏ cho ngày đêm ai muốn vào thì vào như thế, Đức Cha có chắc
là không phần nào bất cẩn không và Đức Cha không sợ nhà cửa toang toàng
như vậy có thể xảy ra sự không may sao? Ông giám mục để tay lên vai của
cha xứ rồi nghiêm trang và khoan từ mà nói: “Nhà mà Chúa chẳng giữ cho mình, thì mình có muốn giữ kín bao nhiêu cũng hoài công”
(Nguyên văn Latinh). Xong ông nói sang chuyện khác.

Ông
nói một cách khá thích thú: “Có sự dũng cảm của nhà tu hành cũng như có
sự dũng cảm của người chỉ huy kỵ binh”. Có điều, ông nói thêm, “sự dũng
cảm của ta phải lặng lẽ”.

Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:14 pm

VII


CƠRAVÁT


Tới
đây tự nhiên phải dành chỗ cho một sự việc không thể nào bỏ qua được vì
đó là một trong các sự việc tốt nhất để hiểu ông giám mục là người như
thế nào.

Bọn
cướp của Gatpa Be trước đây thường quấy nhiễu các hẻm núi rừng Ônliun.
Sau khi chúng bị tiêu diệt, một trong các tay đầu mục, Cơravát, lẩn
tránh vào núi. Y cùng một số lâu la, dư đảng của Gatpa Be, ẩn náu một
thời gian tại quận Nixơ, rồi tràn sang vùng Piêmông và đột nhiên lại
xuất hiện ở địa phận nước Pháp, phía Bácxơlônét. Người ta thấy y ở
Giôđiê rồi ở Tuylơ. Y ẩn nấp trong hang hốc trên núi Giuđơ Legơlơ và từ
đó mò xuống xóm làng theo các vực Uybay và Uybaydet. Có lần ‎dám tiến
tận Ămbroong và đang đêm xông vào nhà thờ vơ sạch đồ lễ. Cả vùng tàn hại
vì những mẻ trộm cướp của y. Cảnh binh được giao trách nhiệm lùng bắt,
nhưng vô hiệu. Lần nào y cũng trốn thoát, cũng có lúc y chống cự mãnh
liệt. Rõ là một tên khốn kiếp táo tợn. Đương cơn kinh hoàng đó thì ông
giám mục tới. Ông đi hành hạt. Đến Sattơla, ông xã trưởng tới tìm ông và
đề nghị ông trở lui. Lý‎ do là Cơravát đang chiếm cứ vùng núi đến tận
Acsơ và quá nữa. Đi sẽ nguy hiểm cho dù có hộ tống. Vì như thế có thể
phải hy sinh một cách vô ích ba bốn người sen đầm bất hạnh.

- Do đó – ông giám mục nói – tôi định không lấy người hộ tống.
- Đức Cha lại nghĩ thế à? – Ông xã trưởng kêu lên.
- Tôi nghĩ thế lắm, cho nên tôi nhất định không lấy sen đầm và một giờ nữa thì tôi đi.
- Đi?
- Đi.
- Một mình?
- Một mình.
- Thưa Đức Cha, Đức Cha đừng làm như vậy.
-
Trên núi – ông giám mục tiếp lời – có một xóm nhỏ chỉ bấy nhiêu, mà đã
ba năm tôi chưa đến thăm. Những người chăn dê hiền lành và lương thiện
ấy, họ là những người bạn tốt của tôi. Cứ ba mươi con dê họ chăn thì họ
chỉ có một. Họ tết những chiếc thừng bằng len đủ màu trông rất xinh, họ
véo von nhiều điệu dan
ca
miền núi với những ống sáo lỗ nhỏ xíu. Thỉnh thoảng họ cũng cần nghe
nói tới Chúa. Vậy mà một ông giám mục yếu bóng vía thì họ sẽ cho là thế
nào? Tôi mà không đi thì họ còn coi ra gì?

- Nhưng mà, thưa Đức Cha, có cướp! Sợ Đức Cha gặp cướp!
- À này – ông nói – tôi vừa nghĩ đến đấy. Ông nói có lý. Tôi có thể gặp họ lắm. Họ nữa, họ nhất định cũng cần nghe nói tới Chúa.
- Thưa Đức Cha, nhưng mà chúng là một lũ cướp! Một bầy chó sói!
- Ông xã trưởng ạ, có lẽ chính vì bầy thú ấy mà Chúa Giêsu cho tôi đi làm kẻ chăn. Ai biết đâu đường nẻo của Đấng Cứu thế?
- Thưa Đức Cha, chúng sẽ cướp hết đồ đạc của Đức Cha.
- Tôi chẳng có gì.
- Chúng giết Đức Cha mất.
- Giết một ông cha cố vừa đi vừa niệm kinh? Chà chà! Để làm gì mới được chứ?
- Lạy Chúa! Rủi Đức Cha gặp chúng thật!
- Tôi sẽ xin họ làm phúc cho kẻ khó của tôi.
- Đức Cha đừng đi, xin Đức Cha, nguy đến tính mệnh mất.
-
Thưa ông xã trưởng, dứt khoát chỉ có thế thôi à! Tôi có mặt trên thế
gian này không phải để gìn giữ tính mệnh mình mà để chăn giữ các linh
hồn.

Đành
phải để mặc ông. Ông ra đi, chỉ có một em bé tình nguyện đi theo dẫn
đường. Cái việc ông khư khư đòi đi ấy đồn đại khắp xứ làm người ta vô c
ùng hoảng sợ.

Ông
không muốn cho bà nào theo cả, bà em cũng không, bà Magơloa cũng không.
Ông cưỡi con la đi suốt qua núi không gặp một ai và đến với những người
chăn dê “bạn tốt” của ông một cách bình an. Ông ở lại với họ nửa tháng,
giảng đạo, xức dầu thánh cho người hấp hối, dạy chữ, nói chuyện đạo lý.

Hôm ông sp từ biệt xứ này, ông quyết định tổ chức một buổi lễ Ngợi Chúa với nghi thức giám mục chủ lễ. Ông ngỏ ý với cụ xứ. Nhưng làm thế nào? Chẳng có đồ lễ của tòa giám. Chỉ có thể đem cho ông dùng một bộ đồ lễ mà xứ nghèo nàn với mấy chiếc áo choàng lụa đã sờn đính tua vàng giả.
- Không sao! – Ông nói – Cụ xứ ạ! Đến giờ giảng chúng ta cứ báo tin về buổi lễ đi. Mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy.
Người
ta lùng ở các nhà thờ xung quanh vùng. Tất cả các thứ sang trọng ở xứ
đạo nghèo này nhập lại cũng không lọc ra được một bộ lễ phục coi được
cho một thầy hát thánh ca ở nhà thờ lớn, đừng nói cho một vị giám mục.

Đương
lúng túng như vậy thì hai người đi ngựa lạ mặt mang đến cho ông giám
mục một hòm to, đặt ở nhà cha xứ rồi đi ngay. Mở hòm ra thì thấy trong
đựng một áo choàng bằng dạ vàng, một chiếc mũ lễ nạm kim cương, một
thánh giá tổng giám mục, một chiếc gậy thánh tuyệt đẹp, tất cả phẩm phục
mất trộm một tháng trước ở kho nhà thờ Đức bà
Ămbroong. Trong hòm có một mảnh giấy đề mấy chữ: Cơravát gửi Đức Cha Biêngvơnuy.

-
Tôi đã nói là mọi việc sẽ đâu vào đấy mà! – Ông nhắc. Xong lại thêm:
người bằng lòng cái áo chẽn cụ xứ thì Chúa lại gửi đến cái áo choàng
tổng giám mục.

- Thưa Đức Cha – cụ xứ lắc đầu, mỉm cười nói nhỏ - Chúa, hay quỉ sứ.
Ông giám mục nhìn thẳng vào cha xứ, nói lại giọng nghiêm nghị: - Chúa!
Khi
ông trở về Sattơla cũng như suốt dọc đường người ta nghe nói đến điều
kỳ lạ, đổ ra xem. Đến nhà cha xứ, ông gặp cô Baptistin và bà Magơloa
đang chờ ở đấy. Ông bảo cô em:

-
Nào tôi nói có đúng không? Người thầy tu nghèo đến với dân nghèo miền
núi, lúc đi tay không, lúc về đầy túi. Tôi ra đi đem theo chỉ có lòng
tin ở Chúa, lúc ra về tôi mang cả kho của cho một nhà thờ.

Buổi tối trước khi đi ngủ, ông còn nói:
-
Không nên sợ kẻ trộm cướp, kẻ giết người bao giờ. Có nguy hiểm thì đó là
cái nguy hiểm bên ngoài, nhỏ nhặt. Chúng ta phải biết tự mình sợ mình.
Thành ki
ến
là trộm cướp đó, tật xấu là giết người đó. Những mối nguy lớn đều ở
trong ta. Sá gì cái đe dọa tính mệnh tài sản ta! Chỉ nên nghĩ đến cái uy
hiếp linh hồn ta mà thôi.

Sau đó ông quay sang phía bà em:
- Cô ạ, đã là người tu hành thì không bao giờ còn đề phòng đối với đồng loại
Đồng loại làm gì là có Chúa cho phép. Chỉ nên biết cầu Chúa khi nghĩ
rằng có tai biến đang đến với ta. Hãy cầu Chúa, không phải cho ta, mà
cho đồng loại khỏi mắc tội nhân trường hợp ta.

Nói
cho đúng, những sự biến coi như rất hiếm trong cuộc đời ông giám mục.
Chúng tôi chỉ kể những cái mình biết được, còn bình thường thì ông sống
theo nề nếp là giờ nào việc ấy. Một giờ trong ngày cũng giống một tháng
trong năm, chẳng khác gì.

Riêng “kho của” của nhà thờ
Ămbroong về sau ra sao, nếu có ai hỏi, chúng tôi sẽ lúng túng hết sức.
Bao nhiêu là của đẹp, khá hấp dẫn “cuốn đi” cho người khốn khổ thì rất
tốt. Vả, nó cũng đã bị “cuốn đi” rồi kia mà. Sự tình kể cũng đã xong một
nửa; chỉ còn đổi hướng “đi” và cho nó đi nốt, mấy bước nữa về phía kẻ
nghèo. Tuy nhiên, sự việc ra sao, chúng tôi chẳng dám nói chắc. Chỉ có
điều là trong giấy má của ông giám mục thấy có ghi mấy chữ hơi khó hiểu,
có lẽ có liên quan đến việc này, xem chữ nghĩa thì như sau: Vấn đề là phải xem cái đó nên đưa về nhà thờ hay về bệnh viện.

VIII


TRIẾT LÝ SAU BỮA ĂN


Ông
thượng nghị sĩ nói đến trên kia là một người thông minh, linh lợi. Ông
đã bước đi trên đường đời với một nguyên tắc cứng rắn là không thèm để ‎
đến những trở lực có khi vấp phải mà người ta gọi là lương tâm, công
lý, bổn phận, lời thề danh dự. Ông đã đi thẳng đến đí
ch,
không một lần nào chệch khỏi con đường thăng quan, tiến lộc. Ông ta
nguyên là một biện lý, say sưa với sự hanh thông, tính tình cũng không
đến nỗi nào, được thì giúp ích chút đỉnh cho con, cho rể, cho bà con, cả
cho bạn bè nữa. Quả là ông đã khéo chọn phía tốt của cuộc đời, các dịp
may, các dịp hiếm có. Còn lại ông coi như là ngu ngốc cả. Tính ông ta
hóm, hiểu biết sách vở đủ để tin mình là đồ đệ của Epicuya, kỳ thật chỉ
là một sản phẩm của Pigôn Lơbrăng. Ông sẵn sàng chế giễu một cách ý vị
những cái gì vô biên, vĩnh viễn, những “chuyện hão huyền của ông cụ già
giám mục”. Có lúc, ông đem ra cười cợt với một vẻ tin tưởng dễ thương,
trước mặt chính ông Mirien để ông này nghe.

Trong
một dịp lễ nửa công, nửa tư gì đó, bá tước… (ông thượng nghị sĩ) và ông
Mirien phải dùng cơm ở nhà ông tỉnh trưởng. Đến lúc tráng miệng, ông
thượng nghị sĩ vui miệng, mặc dù vẫn giữ đúng tư thế, nói to:

-
Hay quá, ông giám mục à, ta nói chuyện đi. Thượng nghị sĩ và giám mục
nhìn nhau khó mà không chớp mắt. Ông với tôi như hai thầy bói. Tôi có
một điều muốn thú thật với ông. Tôi có triết lý riêng của tôi.

- Ông nói đúng – ông giám mục đáp lại. – Người ta vừa nằm vừa triết lý. Ông đang nằm trên đệm tía đó, thưa ông thượng nghị sĩ.
Được khuyến khích, ông thượng nghị sĩ tiếp:
- Xin nói chuyện thật tình.
- Thật bụng nữa – ông giám mục nói.
-
Tôi xin nói với ông - ông thượng nghị sĩ nói lại – rằng hầu tước
Acgiăng, Pirông, Hốpbơ và Negiông không phải là những thứ tầm phơ. Trong
tủ sách nhà tôi có đủ các triết gia tôi thích, đều gáy mạ vàng cả.

- Cũng như ông vậy, ông bá tước ạ- ông giám mục ngắt lời.
Ông thượng nghị sĩ nói tiếp:
-
Tôi ghét Điđơrô, ông ta là một nhà duy ý, một tay cao đàm, một người
cách mạng, xét kỹ là có tin Chúa và sùng đạo hơn Vônte. Vônte thì chế
nhạo Nitham và như thế là sai lầm, vì những
con lươn của Nitham chứng minh rằng Chúa chẳng có ích lợi gì hết. Một giọt dấm đổ vào một thìa bột, tức là sáng thế
rồi chứ gì nữa. Giả dụ cái giọt to hơn và cái thìa lớn hơn, thì chúng
ta có thế gian. Con người, chỉ là con lươn. Thế thì cần gì có Chúa vĩnh
viễn? Thưa ông giám mục, giả thuyết Giêhôva chán lắm. Chẳng qua nó chỉ
tạo ra được những bộ xương rỗng tuếch. Đả đảo cái tất cả cao siêu, nó
chỉ làm rầy người ta! Muôn năm cái số không vì nó để cho người ta được
yên tĩnh! Từ ông đến tôi và để nói thật hết, với lại để được xưng tội
với vị cha linh hồn như lẽ thường, tôi thú thật với ông là tôi có lương
tri. Tôi không mê cái ông Giêsu nhà ông lúc nào cũng khuyên khổ hạnh và
hy sinh. Đúng là khuyên thằng khố rách phải hà tiện. Khổ hạnh! Tại sao
lại phải khổ hạnh? Hy sinh! Hy sinh cho cái gì? Tôi chưa hề thấy con chó
sói nào chịu hy sinh cho hạnh phúc của con sói khác. Hãy sống theo luật
tự nhiên vậy. Chúng ta là vật thượng đẳng, chúng ta có nền triết lý
thượng đẳng. Ở trên cao mà làm gì, nếu không nhìn được xa hơn sống mũi
kẻ khác? Chúng ta nên sống vui vẻ. Sống là tất cả. Còn cái chuyện người
ta có một tương lai khác, ở chỗ khác, ở trên cao kia, hay ở dưới ấy, đâu
đấy, tôi cóc tin tí nào. Ối dào! Người ta căn dặn tôi hy sinh và khổ
hạnh, tôi phải chú ý‎ mọi việc tôi làm, tôi phải nát óc vì cái thiện cái
ác, vì cái đúng cái sai, cái nên cái không nên. Vì sao? Bởi vì tôi phải
trả lời về hành vi của tôi. Lúc nào? Sau khi tôi chết. Thật là hão
huyền! Tôi chết rồi, có thánh mà chộp được tôi. Thử bảo một bóng bàn tay
vốc lấy một vốc tro xem. Nói hẳn cái có thật, chúng tôi là những kẻ
hiểu đời, chúng tôi đã từng biết chuyện đời, không có gì là thiện là ác
cả; chỉ có sự sống. Chúng ta phải tìm cái có thật. Phải đào sâu, tìm đến
cùng chứ! Phải biết đánh hơi chân lý, bới đất lên và chộp lấy. Có thế
mới thật là vui thích. Và bấy giờ tha hồ mà khoe tài, đắc chí. Tôi vốn
là một người dứt khoát. Thưa ông giám mục, vấn đề bất tử của con người
là một chuyện phỉnh trẻ con. Ôi chao! Lời hứa hấp dẫn làm sao! Anh cứ
tin tưởng. Số ông Ađam thật là may! Bây giờ là linh hồn, mai kia là
thiên thần, có cánh màu xanh ở xương vai. Nào, ông giúp tôi với, có phải
Tectuyliêng nói rằng những kẻ hưởng phúc đời đời sẽ chu du từ hành tinh
này sang hành tinh khác không? Vâng, cứ coi là thế. Người ta sẽ trở
thành châu chấu giữa các vì sao. Và, người ta gặp Chúa Trời. Chà chà
chà! Tất cả các thứ thiên đường ấy đều nhảm nhí tuốt. Chúa Trời là một
trò đùa khổng lồ. Nhất định là tôi không nói cái đó trên tờ Người huấn luyện đâu,
nhưng trong bạn bè thì chúng tôi cứ rỉ tai nhau. Interpocula hy sinh
cuộc sống trần tục để cầu thiên đường thì chẳng khác nào thả mồi bắt
bóng. Để cho vô biên lừa phỉnh, dại gì! Tôi không gì cả. Tên tôi là bá
tước Hư vô, thượng nghị sĩ. Trước khi tôi sinh, có tôi không? Không. Sau
khi tôi chết đi, còn tôi không? Không. Tôi là gì? Một nhúm bụi dính
nhau trong một cơ thể. Tôi làm gì trên trái đất này? Tùy tôi chọn. Chịu
đau khổ hoặc hưởng thụ. Chịu khổ sẽ đưa tôi đến đâu? Đến hư vô. Nhưng
tôi đã chịu khổ. Còn hưởng thụ thì sẽ đưa đến đâu? Cũng đến hư vô. Nhưng
tôi đã được hưởng thụ. Tôi đã chọn rồi đấy. Ở đời hoặc phải ăn hoặc
phải bị ăn. Tôi thì tôi ăn. Làm trâu tốt hơn làm cỏ. Cái đạo đức của tôi
là thế. Còn sau nữa nước chảy thuyền trôi, cửa mồ rộng mở, điện
Păngtêông
(Panthéon: điện thờ danh nhân, xây dựng ở Paris vào thế kỷ XVIII) cho tất cả chúng ta.Tất cả đều rơi tỏm xuốn cái hố huyệt lớn. Thế là chấm dứt. Finis.
Thanh toán hòan toàn. Đây là bắt đầu chỗ tiêu tan. Chết là hết, tôi nói
đúng như thế. Ở chỗ này mà có kẻ còn muốn nói với tôi một điều gì, chỉ
nghĩ đến điều đó thôi tôi đã thấy buồn cười. Chuyện bịa của vú em. Ngáo
ộp cho trẻ con, Giêhôva cho người lớn. Không, mai sau của chúng ta thuộc
về đêm tối. Đằng sau ngôi mộ chỉ còn có những hư vô ngang nhau. Anh đã
là Xácđanapan, anh đã là Vanhxăng đơ Pôn, cái đó cũng thành con số không
như nhau.
(Sardanapale:
nhân vật truyền thuyết của thành quốc Babylone, nổi tiếng hư hỏng và
hèn nhát; Saint Vincent de Paul: Thánh tử vì đạo trong thế kỷ I ở La Mã,
nổi tiếng là người đạo đức, đã viết nhiều chương trong Tân ước.)
Đó
là cái có thật. Vậy thì hãy sống, sống trên hết. Hãy dùng lấy cái tôi
khi nó còn trong tay anh. Nói thật, tôi xin thưa với ông, ông giám mục
ạ, rằng tôi có triết lý của tôi và triết gia của tôi. Tôi không bị mê
hoặc bởi những lời nói nhảm nhí. Cố nhiên, rồi cũng phải có gì cho kẻ ở
dưới, những người chân đất, những người mài dao, những kẻ khốn khổ.
Người ta tọng cho họ nuốt những thần thoại, những ảo tưởng, nào linh hồn
bất tử, nào thiên đường, các vì sao. Họ cứ mà nhai các thứ ấy, cứ mà
phết lên mẩu bánh không. Kẻ không có gì cả thì đã có Chúa Trời. Đúng đó
là phần ít ỏi nhất. Tôi không ngăn trở điều đó, nhưng tôi giữ cho ông
Negiông. Chúa Trời là cái rất tốt cho dân chúng.

Ông giám mục vỗ tay:
-
Nói như thế mới là nói! – Ông reo lên – Quí hóa biết bao, thật là tuyệt
diệu cái duy vật ấy! Chả phải ai muốn là có được đâu. À! Có nó thì không
bao giờ còn bị lừa nữa, không còn khờ dại mà để bị đày biệt xứ như
Catông, bị ném đá như Êchiên, càng không để bị thiêu sống như Gian Đác.
Kẻ nào tạo được cho mình cái duy vật quí hóa ấy sẽ lấy làm vui thấy mình
chẳng chịu trách nhiệm về cái gì cả. Mình có thể nuốt tươi tất thảy
không chút băn khoăn, những chức vụ, những nghề ăn không ngồi rồi, những
tước vị, những quyền hành tóm được chính đáng hay không chính đáng,
những cách nói lời rồi lại ăn lời để hốt bạc, những sự phản bội bổ ích,
những sự đầu hàng ý vị của lương tâm. Và cuối cùng thì bước xuống mồ sau
khi dạ dày đã tiêu sạch mọi thứ. Thật là thú vị! Những điều đó, không
phải là tôi nói ông đâu, ông thượng nghị sĩ ạ. Tuy nhiên, tôi không thể
nào mà không khen ngợi ông. Các ngài quyền cao chức cả, chính miệng các
ngài nói ra, các ngài có triết lý riêng của mình và cho mình, một thứ
triết lý hay ho, tế nhị, chỉ riêng người giàu sang mới hiểu nổi và dùng
để nấu món gì cũng được, nhất là để nêm tiêu muối cho các khoái lạc ở
đời thì càng tuyệt. Cái triết lý ấy lấy từ đáy sâu và có những nhà thám
hiểm đặc biệt moi móc lên. Nhưng các ngài cũng có lòng từ thiện, các
ngài không đến nỗi cho là xấu cái việc dân chúng lấy việc tin vào Chúa
làm triết lý của mình, giông giống như món ngỗng hầm hạt dẻ là món gà
nhồi nấm của người nghèo.


IX

CÔ EM TẢ ÔNG ANH


Để
mọi người có một ý niệm về cuộc sống gia đình của ông giám mục và cách
hai bà phụ nữ đem mọi hành động, mọi ý nghĩ, cả mọi bản năng phụ nữ rất
hay giật thót của mình, phục tùng những thói quen và những ý định của
ông giám mục, mà không cần ông phải mất công nói ra lời, chúng tôi thấy
không gì tốt hơn là sao lại đây bức thư của cô Baptistin gửi cho bà tử
tước Boasơvrông, người bạn từ thời thơ ấu của mình. Bức thư ấy hiện
chúng tôi đang giữ.

Đinhơ, 16 tháng 12 năm 18…

chị kính mến, không ngày nào chúng tôi không nhắc đến bà chị. Cái đó kể
ra đã thành thói quen, nhưng cũng có một lý do nữa. Bà chị cứ tưởng
tượng dùm cho là bà Magơloa trong khi chùi rửa, quét bụi trần nhà và cái
bức vách, lại có những phát hiện đấy. Hai buồng chúng tôi đều phất giấy
cũ quét vôi trắng, giá như ở trong một lâu đài như của bà chị chắc cũng
không đến nỗi làm cho nó xấu đi. Bà Magơloa đã xé tất cả chỗ giấy. Bên
dưới có nhiều thứ. Các phòng khách của tôi, ở đấy chẳng có bàn ghế gì,
chúng tôi dùng để phơi quần áo vừa ngâm xong, cao năm thước và rộng trên
năm thước, có trần xưa kia quét sơn, dát vàng với nhiều xà ngang như ở
nhà bà chị. Hồi nhà này còn là nhà thương, chung quanh phòng đều lót
vải. Có cả những bức chạm gỗ thời bà cụ nội chúng ta. Nhưng chính là
phải xem buồng của tôi kia. Bà Magơloa đã tìm thấy dễ thường dưới mười
lớp giấy dán chồng nhau, nhiều bức tranh sơn, không đẹp lắm nhưng coi
được. Có bức hình Minecvơ phong kỵ sĩ cho Têlêmac, có bức cũng hình
Têlêmac trong vườn cây. Tôi quên mất tên. C
ái
nơi các bà người La Mã cũng đến trong một đêm. Tôi nói gì với bà chị
nữa nhỉ? Tôi có đủ những đàn ông, đàn bà La Mã (chỗ này có một chữ không
đọc được) và một đám tùy tùng. Bà Magơloa đã lau rửa sạch sẽ các thứ ấy
và mùa hè này bà ấy sẽ chữa lại đôi chỗ hư hỏng tí chút, rồi sơn lại
một loạt, thế là cái buồng của tôi trở thành một nhà bảo tàng thật sự.
Bà ấy cũng tìm được trong một xó kho thóc hai cái bàn chân quì kiểu xưa.
Thợ họ đòi hai ê-quy sáu phơrăng mới sơn lại, nhưng tốt hơn là để tiền
ấy cho kẻ nghèo; với lại cái bàn ấy trông cũng xấu xí, tôi thích một cái
bàn tròn bằng gỗ đào hoa tâm hơn.

Tôi
thấy mình luôn được sung sướng. Ông anh tôi tốt quá. Ông đem tất cả cho
kẻ khó và người ốm đau. Vì thế chúng tôi khá lúng túng. Xứ này mùa đông
lại gay gắt mà cũng phải làm một cái gì cho những kẻ thiếu thốn. Chúng
tôi chỉ còn vừa đủ tiền củi sưởi và dầu đèn. Bà chị thấy không? Như thế
cũng rất dễ chịu!

Ông
anh tôi lại có cái thói quen riêng. Lúc chuyện trò, ông nói rằng một
ông giám mục phải như thế mới được. Bà chị cứ hình dung cho là nhà chẳng
bao giờ đóng cửa. Muốn vào thì cứ vào và một bước là ở ngay trong buồng
ông ấy. Ông chả sợ gì cả. Ban đêm cũng vậy. Ông cho đó là dũng cảm
riêng của ông.

Ông
không muốn tôi sợ giùm cho ông, mà cũng không muốn cho bà Magơloa phải
sợ. Ông xông pha mọi thứ nguy hiểm nhưng lại không muốn chúng tôi có vẻ
để ý đến. Cũng phải biết cái lối của ông ấy là thế.

Trời
mưa ông cũng đi, gặp nước ông cũng lội, mùa đông ông vẫn đi xa. Ông
chẳng sợ gì đêm tối, đường xá không an toàn ông cũng mặc; ông cũng chẳng
ngại gì đụng đầu với những tên vô lại.

Năm
ngoái, ông đi một mình đến một vùng trộm cướp. Ông không muốn đem chúng
tôi theo. Ông vắng biệt những nửa tháng. Lúc ông trở về, hóa ra chẳng
có chuyện gì xảy ra cả, người ta tưởng ông chết thì ông lại rất khỏe
mạnh. Ông nói: “Người ta đã cướp bóc tôi như thế này đây!” Và ông mở
chiếc hòm đựng đầy các bảo vật của nhà thờ
Ămbroong, mà bọn cướp đã tặng ông.

Lần
ấy, trên đường về, chẳng là tôi cùng một số bạn bè của ông đã đi hai
dặm để đón ông, tôi không kìm mình được nên có cằn nhằn ông một chút,
nhưng đã chú ý chỉ nói lúc chiếc xe kêu lạch cạch để không một ai nghe
thấy.

Thời
gian đầu tôi tự bảo: “Không có nguy hiểm gì làm ông chùn bước, ông này
tợn thật”. Bây giờ thì rồi tôi cũng quen đi. Bà Magơloa có định cản trở
ông thì tôi ra hiệu bảo bà ấy dừng. Mặc ông muốn xông pha nguy hiểm thì
ông cứ làm. Phần tôi, tôi kéo bà Magơloa đi, rồi tôi về buồng mình, tôi
cầu nguyện cho ông và tôi thiếp đi. Tôi vẫn yên tâm, vì tôi biết rằng
nếu có tai biến gì xảy ra cho ông thì đời tôi cũng chấm dứt. Tôi sẽ đi
về với Chúa cùng ông anh và đức giám mục của tôi. Bà Magơloa thì có vất
vả hơn mới làm quen được với cái nhà bà gọi là sự bất cẩn của ông. Nhưng
bây giờ thì đã thành nếp rồi. Hai chúng tôi cùng cầu kinh, cùng sợ với
nhau và c
ùng nhau ngủ thiếp đi. Quỉ có vào nhà thì cũng mặc xác nó muốn làm gì thì làm. Nói cho cùng, chúng tôi còn sợ cái gì trong
nhà này? Luôn luôn chúng tôi đã có một người nào đó bên cạnh và người
đó lại là người có quyền lực nhất. Quỉ có thể tạt qua, còn kẻ ở thường
trực lại là Chúa.

Như
vậy đối với tôi là đủ. Bây giờ ông anh tôi cũng chẳng cần nói với tôi
một tiếng nào. Ông không nói tôi cũng hiểu và chúng tôi phó mình cho
Thượng đế.

Đó là cách cư xử của một con người có cái vĩ đại trong đầu óc.

chị ạ, tôi đã hỏi ông anh tôi để tìm hiểu về dòng họ Phô mà bà chị có
nhờ tôi. Rõ là cái gì ông cũng biết và ông cũng nhớ nhiều kỷ niệm lắm,
vì ông luôn vẫn trung thành với nền quân chủ. Đúng đó là một thế gia
Nóocmăng rất xưa trong quận Căng. Cách đây năm trăm năm trong gia đình
ấy đã có một vị là Raun đơ Phô, một vị là Giăng đơ Phô và một vị là
Tômát đơ Phô, cả ba đều là quí tộc, trong đó có một là lãnh chúa ở
Rơsơpho. Người cuối cùng trong họ là Ghi Êchiên Alêchdăng, chỉ huy trung
đoàn và cũng giữ chức vụ gì đó trong kỵ binh của Brơtanhơ. Con gái ông
này là Mari Luidơ lấy Adriêng Saclơ đơ Gramông, con trai công tước Lui
đơ Gramông, đại tá vệ binh và chuẩn tướng trong quân đội. Tên họ này có
thể viết nhiều cách khác nhau nh
ưng cũng là Phô cả.


chị quí mến ơi, mong bà chị trình với Đức Khâm mạng trong hàng thân
thích tôn kính của bà chị, nhớ giùm tên chúng tôi trong lời cầu kinh của
ngài. Còn cô Xivani yêu quí của bà chị, cô ấy đã làm một việc mà không
dùng những phút ngắn ngủi cô ấy được g
n
bà chị mà viết thư cho tôi. Cô ấy sức khỏe, học hành vừa ý bà chị và
vẫn yêu tôi luôn luôn. Đó là tất cả những điều tôi mong muốn. Nhờ bà chị
mà tôi nhớ đến cô ấy. Tôi lấy làm sung sướng dạo này sức khỏe tôi không
đến nỗi tồi lắm, nhưng cứ ngày càng gầy thêm. Đến đây, bút cùn mực cạn,
xin từ biệt bà chị. Kính chúc bà chị mọi sự tốt đẹp. Kính chào.


Baptistin

T.B.
– Cô em dâu của bà chị vẫn ở đây với gia đình mình. Cậu cháu trai của
bà chị kháu lắm. Bà chị chắc không ngờ là cậu ta sắp lên năm nhỉ! Hôm
qua cậu ta thấy một con ngựa đi ngang qua, đầu gối quấn bao vải, cậu ta
nói: con ngựa có cái gì ở đầu gối thế nhỉ? – Cậu bé ngoan quá! Em trai
cậu kéo lê một cái chổi cùn quanh phòng như kéo xe và nói: “Nào! Nào!”

Cứ
cái thư này thì thấy rõ hai người đàn bà đã biết khuôn mình theo cách ăn
ở của ông giám mục với cái biệt tài của phụ nữ, nó giúp họ hiểu người
đàn ông hơn cả người đàn ông. Ông giám mục có cái vẻ người hiền l
ành,
hồn nhiên, không bao giờ thay đổi, nhưng có lúc lại có những hành động
lớn lao táo bạo và hết sức đẹp đẽ mà hình như chính ông cũng không ngờ
đến. Hai bà run sợ nhưng cứ để tự nhiên. Cũng có khi bà Magơloa thử có
đôi lời trách móc trước khi ông làm, nhưng khi ông đang làm và làm xong
thì không bao giờ bà có lời nào. Tuyệt nhiên không ai làm rầy ông, khi
việc đã bắt đầu, dù chỉ bằng một dấu hiệu. Một đôi lúc, ông chẳng cần
nói, có lẽ ông cũng không có ý thức rõ rệt, vì đức giản dị của ông quá
hoàn toàn, hai bà cảm thấy một cách mơ hồ rằng ông đang hành động như
một giám mục chân tu; và như thế hai bà chỉ còn như hai cái bóng đi lại
trong nhà. Hai bà phục vụ ông một cách ngoan ngoãn và nếu phục tòng là
giấu mặt thì hai bà luôn luôn giấu mặt. Nhờ có một năng khiếu tinh tế
rất đáng phục, hai bà biết rằng có những sự săn sóc nào đó lại làm cho
người ta khó chịu. Vì vậy mà ngay lúc cảm thấy ông đang lâm nguy, hai bà
hiểu rất rõ, không phải chỉ ý nghĩ mà bản chất của ông, nên không còn
giữ gìn cho ông nữa mà phó thác cho Chúa.


Với lại cô Baptistin cũng
từng nói, như trên đây đã thấy, hễ ông anh bà có mệnh hệ nào thì bà cũng
không sống nữa. Bà Magơloa thì không nói ra, nhưng bà cũng hiểu như
vậy.


X


ÔNG GIÁM MỤC ĐỨNG TRƯỚC


MỘT ÁNH SÁNG KHÁC LẠ


Sau
bức thư nói trên kia được ít lâu, ông giám mục làm một việc, theo dư
luận thành phố, còn liều lĩnh hơn việc đi qua vùng núi non của bọn lục
lâm nữa.

Ở vùng nông thôn kế cận thành Đinhơ, có một ông già sống đơn độc. Người ấy, xin nói ngay cái tiếng ghê gớm, nguyên là một tay có chân trong viện Quốc ước (Nguyên
văn: Conventionnel, nghĩa là một dân biểu trong viện Quốc ước. Viện này
đã thiết lập chế độ cộng hòa, phế và xử tử Lui thứ XVI, thi hành chuyên
chính để bảo vệ cách mạng, bảo vệ nước Pháp)
. Tên ông ta là G.

Xã hội nhỏ bé thành Đinhơ
nói đến G. một cách ghê tởm. Một tay cách mạng, các ngài tưởng tượng
được chăng? Ngữ ấy sống ở cái thời người ta mày tớ với nhau và gọi nhau
là công dân kia, công dân nọ. Có thể nói hắn là một con quái. Chính tay
hắn không bỏ phiếu giết vua, nhưng cũng gần như thế. Hắn là một con
người ghê gớm. Tại sao, lúc các vị hoàng thân chính thống về nước, người
ta lại không lôi nó ra tòa án đặc biệt mà xử? Đã đành là không xử tử,
vì có chính sách khoan hồng, nhưng ai cấm giáng cho nó một cái án chung
thân phát vãng! Cũng phải làm một cái gì để răn người chứ!... Vả lại,
hắn là một tên vô thần chủ nghĩa, cũng như cả bè lũ chúng – Bầy ngỗng
bàn tán về con kên kên.

Nhưng
G. có phải là con kên kên không? Đúng là một con kên kên, nếu như người
ta nhìn đến cảnh cô độc cục cằn của hắn. Hắn không biểu quyết xử tử vua
nên không bị đày biệt xứ. Hắn được ở lại nước Pháp.

Hắn
ở cách thành phố độ bốn mươi lăm phút, xa làng mạc, xa đường cái, trong
một nếp thung lũng hẻo lánh, hoang vu. Người ta bảo là ở đấy có một
mảnh đồng, giống như một cái ổ, một thứ xào huyệt. Không có láng giềng,
cũng chẳng bao giờ có khách tạt qua. Từ khi hắn đến ở đó thì con đường
mòn qua lại cũng bị cỏ che lấp. Người ta ghê rợn nói đến chỗ ấy cũng như
nói đến cái nhà của một tên đao phủ.

Nhưng
ông giám mục nghĩ đến hắn và thỉnh thoảng nhìn về phía lùm cây ở chân
trời là chỗ thung lũng hắn ở, ông nói “ở nơi kia có một linh hồn hiu
quạnh”.

Và trong thâm tâm ông nghĩ: “Ta cần phải đi thăm hắn”.
Phải
nhận thấy rằng cái ý ấy lúc đầu có vẻ rất tự nhiên, nhưng lâu dần càng
suy nghĩ ông càng thấy kỳ quặc, phi lý, có phần ghê tởm nữa. Bởi vì, nói
cho đúng, ông không thoát khỏi cảm tưởng chung của mọi người. Đối với
người cách mệnh ấy ông muốn xa lánh, nghĩa là ông gần như thù hằn hắn
ta, nhưng điều này tự ông không thấy rõ lắm.

Ghẻ của con chiên có làm cho người mục đồng xa lánh nó không? Nhưng con chiên này nó thế nào ấy!
Ông giám mục băn khoăn lắm. Một đôi khi, ông dời bước đi về phía ấy, rồi thình lình ông quay gót.
Thế
rồi một hôm, người ta xì xào là chú bé mục đồng giúp việc cho tên sát
nhân già kia ra phố mời thầy thuốc, là hắn bị bệnh bại liệt sắp chết, có
lẽ không qua được đêm nay.

Một đôi người thêm: may mắn làm sao!
Ông giám mục lấy gậy, khoác áo dạ ngoài vì chiếc áo thâm của ông quá sờn cũ và gió đêm sắp thổi lạnh, rồi ông ra đi.
Trời
đã ngã về chiều, mặt trời sắp lặn, ông giám mục mới đến nơi bị loại bỏ.
Khi nhận ra là đã đến gần miệng ổ, ông không thể giữ cho trống ngực
khỏi đánh. Ông bước qua một cái hào, đi hết một hàng giậu, nâng một dàn
nho lên vào một khu vườn hoang tàn, mạnh dạn bước mấy bước và ở cuối
vườn, sau một bụi cây rậm, cái hang ổ hiện ra đột ngột.

Đó là một túp lều thấp, nghèo nàn, bé nhỏ mà sạch sẽ, mặt trước có một giàn nho.
Trước cửa, trong chiếc ghế xe cũ kỹ, loại ghế nông dân, một ông già tóc bạc đang ngồi mỉm cười với mặt trời.
Bên cạnh ông già có một chú mục đồng. Nó đưa cho ông một bát sữa.
Trong lúc ông giám mục lặng lẽ nhìn, ông già nói với chú bé:
- Cám ơn chú, ta không cần gì nữa hết.
Ông không cười với mặt trời nữa, quay sang mỉm cười với chú bé.
Ông
giám mục bước tới. Nghe tiếng động, ông già quay lại và mặt ông tỏ vẻ
ngạc nhiên, với cái lượng ngạc nhiên còn lại sau một cuộc đời dằng dặc.
Ông nói:

- Từ khi tôi về đây đến nay, lần này là lần đầu tiên có người đến nhà tôi. Thưa ông, ông là ai?
Ông giám mục đáp:
- Tôi là Biêngvơnuy Mirien.
- Biêngvơnuy Mirien! Tôi đã nghe nói đến tên ấy. Ông có phải là người mà dân chúng gọi là Đức Cha Biêngvơnuy đó chăng?
- Chính tôi.
Ông già cười nụ:
- Thế thì ông là giám mục của tôi?
- Hình như thế.
- Mời ông vào.
Người cách mạng đưa tay, nhưng ông giám mục không bắt. Ông chỉ nói:
- Tôi lấy làm sung sướng nhận thấy rằng người ta đã dối tôi. Ông không ốm đau gì thì phải.
- Tôi sắp khỏi rồi.
Ông già nghĩ một tí rồi nói tiếp:
- Ba tiếng đồng hồ nữa thì tôi chết.
Ông lại nói:
-
Tôi cũng hơi biết nghề làm thuốc ít nhiều. Tôi biết người thế nào là sắp
chết. Hôm qua tôi chỉ thấy lạnh ở hai bàn chân; sáng nay lạnh lên đến
gối; bây giờ tôi cảm thấy nó lên đến thắt lưng rồi; khi nó lên đến tim
thì tôi ngừng sống. Mặt trời đẹp quá phải không ông? Tôi bảo đẩy tôi ra
đây để nhìn vạn vật một lần cuối. Ông cứ nói chuyện đi, nghe chuyện
không làm cho tôi mệt đâu. Ông đến xem một con người sắp chết là tốt
đấy. Lúc chết mà có một người làm chứng cho mình thì cũng hay! Ai cũng
có những tật riêng. Tôi, thì tôi muốn gắng đến sáng hãy đi, nhưng xem ra
chỉ còn được sống ba tiếng nữa là cùng. Tôi sẽ nhắm mắt vào lúc đêm
tối. Nhưng cần quái gì! Chết là một chuyện đơn giản, cần gì phải có ánh
bình minh mới chết được! Đành thế. Tôi sẽ nhắm mắt dưới ánh sao.

Ông già quay về phía chú mục đồng:
- Con đi ngủ đi con. Con đã thức đêm hôm qua, hôm nay con phải mệt.
Chú bé bước vào trong lều.
Ông già nhìn theo nó, nói một mình:
- Khi nó ngủ thì tôi chết. Cũng là giấc ngủ cả, có thể ở bên cạnh nhau lắm chứ!
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:15 pm

Ông
giám mục không cảm động như ở mọi trường hợp khác. Ông cảm thấy không
có Chúa trong cái lối chết này. Vả lại cũng cần phải nói hết, nói cả
những mâu thuẫn vụn vặt trong những tâm hồn vĩ đại! Ông giám mục hơi
phật ý vì không được gọi là Đức Cha, tuy cũng có khi ông đem tiếng Ông
lớn ra cười cợt. Ông toan gọi người cách mạng già là: công dân. Ông
thoáng có ý muốn sỗ sàng cộc lốc, như nhiều thầy thuốc và cố đạo, tuy
ông không quen cái lối ấy. Chung qui, con người ấy, tay cách mạng ấy,
dân biểu ấy, đã một thời lẫy lừng quyền thế; cho nên, có lẽ đầu tiên
trong đời, ông giám mục muốn có thái độ nghiêm khắc.

Người
cách mạng thì đối với ông chân tình và khiêm nhượng; trong thái độ của
ông, người ta cảm thấy vẻ khiêm tốn của một người biết mình sắp trở
thành cát bụi.

Ông
giám mục thường tránh tọc mạch vì ông cho tọc mạch cũng gần như xúc
phạm người ta. Nhưng ông không thể không chú ý quan sát người cách mạng.
Ông chú ý nhưng không phải vì có cảm tình cho nên đối với một người nào
khác mà ông chú ý như thế tất lương tâm ông sẽ cắn rứt. Nhưng một tên
cách mạng theo ông thì còn luật lệ nào che chở cho, cả đến luật nhân ái
nữa.

Ông
G. bình tĩnh, nửa thân trên vươn thẳng, giọng nói sang sảng. Ông thuộc
về cái hạng ông già tám mươi cứng cáp làm các nhà sinh lý học kinh ngạc.
Cách mạng đã có nhiều người như thế, những người cũng to lớn như thời
đại. Nhìn ông, người ta cảm thấy đó là một con người đã qua trăm rèn
nghìn luyện. Cử chỉ dáng điệu của ông là của con người khỏe mạnh, tuy
ông sắp chết trong giây lát. Tia mắt trong sáng, giọng nói chắc nịch,
cái nhún vai hùng mạnh của ông làm cho thần Chết thất vọng, làm cho quỉ
sứ bắt vong phải quay trở về vì ngỡ mình lầm cửa. Ông G. chết hình như
là vì ông vui lòng muốn chết thôi. Trong cách hấp hối của ông, có sự chủ
động. Chỉ có chân ông là cứng đờ: U minh nắm ông ở đôi chân ấy. Hai bàn
chân chết lạnh nhưng đầu vẫn sống một cách mãnh liệt, chói ngời ánh
sáng. Trong giờ phút nghiêm trọng ấy, ông G. giống như ông vua trong
chuyện cổ tích đông phương nọ, phần trên người là xương thịt, phần dưới
là đá hoa.

Ông giám mục ngồi lên phiến đá bên cạnh. Đoạn khai đề khá đột ngột (Nguyên văn Latinh: ex abrupto), ông khen mà giọng như là khiển trách:
- Tôi mừng cho ông. Dẫu sao, ông đã không bỏ phiếu xử tử hoàng thượng.
Nhà cách mạng có vẻ như không để ý đến những gì chua chát ẩn đằng sau hai tiếng “dẫu sao”. Ông không cười nụ nữa. Ông trả lời:
- Ông chớ nên quá khen tôi. Tôi đã bỏ phiếu kết liễu bạo chúa.
Giọng nghiêm lạnh đối với giọng nghiêm khắc.
- Ý ông định nói gì? – Ông giám mục hỏi.
- Tôi muốn nói rằng con
người có một bạo chúa: đó là sự ngu dốt. Tôi đã bỏ phiếu kết liễu tên
bạo chúa đó. Tên bạo chúa đó đã đẻ ra chế độ quân chủ; quân chủ là uy
thế xây dựng trên sai trái, trí thức là uy thế xây dựng trên cái đúng,
cái chân. Chỉ có trí thức mới xứng đáng điều khiển con người.

- Và lương tâm – ông giám mục thêm.
- Cũng là một. Lương tâm là cái lượng tri thức bẩm sinh ở mỗi chúng ta.
Ông giám mục nghe luận điệu quá mới mẻ này thì hơi ngạc nhiên.
Nhà cách mạng nói tiếp:
- Còn việc giết Lui thứ XVI
thì tôi bỏ phiếu chống. Tôi nghĩ rằng tôi không có quyền giết người.
Nhưng tôi có nhiệm vụ tiêu diệt cái xấu. Tôi bỏ phiếu thủ tiêu bạo chúa,
nghĩa là thủ tiêu chế độ mãi dâm đối với đàn bà, thủ tiêu chế độ nô lệ
đối với đàn ông, thủ tiêu đêm tối đối với con trẻ. Biểu quyết cho chính
thể cộng hòa, tôi đã biểu quyết cái đó. Tôi biểu quyết cho bác ái, cho
đồng tâm, cho bình minh! Tôi góp sức đánh đổ các thành kiến và sai lầm.
Thành kiến và sai lầm đổ xuống thì hào quang hiện lên. Chúng tôi đây là
những người lật đổ thế giới cũ là một hũ chứa đau khổ, cái hũ ấy đổ úp
lên nhân loại thì thành một bình chứa niềm vui trong lành.

- Trong lẫn đục.
- Ông nên gọi là niềm vui bị vẩn đục và ngày nay sau cái năm 1814 (Năm phục hưng quân quyền ở Pháp sau thời kỳ Cách mạng và thời kỳ đế chế)
mà người ta gọi là sự hồi phục tai ngược của dĩ vãng, niềm vui tan
biến. Than ôi! Công trình dang dở! Thật vậy, chúng tôi đả phá chế độ cũ
trong việc làm nhưng chúng tôi không tiêu diệt được nó hoàn toàn trong
tư tưởng. Tiêu diệt các tệ hại chưa đủ, phải thay đổi cả phong tục. Cái
cối xay gió không còn, nhưng gió vẫn tồn tại.

- Các ông đã hủy phá tất cả. Hủy phá có thể có ích, nhưng tôi không tin sự phá hủy trong giận dữ.
- Thưa ông giám mục, công lý
có lúc phải phẫn nộ và sự phẫn nộ của công lý là yếu tố của tiến hóa.
Người ta muốn nói gì thì nói, mặc, cách mạng Pháp vẫn là bước tiến vĩ
đại nhất của nhân loại từ khiChúa Giêsu ra đời. Dang dở, đúng, nhưng mà
tuyệt vời. Nó đã phát hiện tất cả những bài toán xã hội. Nó đã làm cho
trí não con người dịu đi: nó vỗ về, trấn tĩnh, soi sáng; nó giội lên mặt
đất từng dòng suối văn minh. Nó là một điều hay. Cách mạng Pháp là lễ
tức vị của nhân loại.

Ông giám mục không thể không lẩm bẩm:
- Thật vậy ư? Còn năm 93! (Năm
viện Quốc ước thi hành chuyên chính cao độ để bảo vệ chế độ cộng hòa
mới xây dựng và lãnh thổ nước Pháp bị uy hiếp. Bọn phản đối lấy cớ là có
nhiều máu đổ để công kích cách mạng và tranh thủ bọn không lập trường)

Nhà cách mạng ngồi thẳng người lên với một vẻ nghiêm trang hầu như ảm đạm. Ông lấy hết hơi sức của một người sắp chết, thét lên:
- Ồ! Tôi biết mà! Năm 93!
Phải đấy, tôi đợi ông nói lên cái tiếng ấy. Một đám mây mù vầy vẩn đằng
đẵng một nghìn năm trăm năm. Thế rồi sau mười lăm thế kỷ nó bị đánh tan.
Ông, ông muốn lên án tiếng sét đánh tan mây mù.

Ông giám mục cảm thấy mình có một chỗ yếu nào đó đã bị đánh trúng. Cố để không nao núng, ông đáp:
- Quan tòa nhân danh công lý
mà nói, cố đạo vì nhân ái mà nói; nhân ái không gì khác là hình thái
công lý tối cao. Sấm sét không nên đánh lầm.

Ông nhìn đăm đăm vào mặt nhà cách mạng, hỏi tiếp:
- Thế Lui XVII? (Con Lui
XVI, cháu nội Lui XV là một ông vua bị dân chúng ghét nhất. Lui XVII bị
giam trong ngục và chết năm 1793, lúc lên 10 tuổi.)

- Lui XVII? Xem nào! Ông
thương khóc ai? Thương khóc em bé vô tội à? Thế thì được. Tôi cũng
thương khóc với ông. Hay là ông thương khóc hoàng tử Lui? Hãy để cho tôi
xem lại. Đối với tôi, đứa bé em thằng Cactut (một tên tướng cướp lừng danh),
một thằng bé vô tội bị buộc qua nách treo lên ở pháp trường cho đến
chết, chỉ vì cái tội là em Cactut, đứa bé ấy cũng đáng thương xót như
đứa cháu vua Lui XV là một thằng bé vô tội bị hành hạ trong ngục
Tăngpơlơ, vì cái tội ác duy nhất là cháu nội Lui XV.

- Thưa ông, tôi không thích người ta so sánh như thế.
- Cactut? Lui XV? Ông kêu thiệt thòi cho Cactut hay Lui đấy?
Yên lặng trong giây lát. Ông
giám mục gần như hối tiếc là mình đã trót đến đây, tuy nhiên ông lờ mờ
cảm thấy mình nao núng, nao núng một cách khác thường.

Nhà cách mạng lại nói:
- Ồ! Ông cố đạo không ưa
nghe nói trắng sự thật. Nhưng Chúa Giêsu ngày trước lại ưa. Chúa cầm một
cái roi đập bụi cho điện thờ. Cây roi chớp hào quang của Chúa nói sự
thật lên không vị nể. Khi Chúa kêu: Để trẻ đến với ta (Nguyên văn Latinh: Sinite parvulos). Chúa không phân biệt những đứa trẻ con. Chúa không ngần ngại ghép con của Barabat với con của Hêrốt (Barabas: một tên sát nhân, cũng bị giam với Giêsu; Herode: vua Giuyđê, đã kết án Giêsu).
Thưa ông, sự trong trắng tự nó đã là một chiếc mũ bình thiên, sự trong
trắng không cần đến cái tước điện hạ. Sự trong trắng rách rưới cũng
tuyệt vời cao quí như sự trong trắng khoác long bào.

Ông giám mục nói khẽ:
- Đúng thế!
- Tôi nhấn thêm nữa. Ông
nhắc đến Lui XVII. Chúng ta hãy thống nhất với nhau. Chúng ta có khóc
tất cả những người vô tội, những kẻ tử nạn, tất cả những trẻ em, bất kỳ
là thường dân hay quí tộc không? Khóc thế thì tôi tham dự. Nhưng như thế
thì phải đi ngược dòng lịch sử tận trước năm 93, trước Lui XVII để bắt
đầu thương xót. Tôi khóc con vua chúa với ông nếu như ông chịu khóc con
dân nghèo với tôi.

- Tôi khóc tất cả những đứa bé ấy.
Ông G. la lớn:
- Đồng đều như nhau! Mà nếu
cán cân cần phải nghiêng về một bên nào, tôi mong rằng nó sẽ nghiêng về
bên dân chúng. Dân chúng đã chịu khổ lâu hơn.

Lại yên lặng. Rồi người cách
mạng cất tiếng trước. Ông chống khủy tay, nhỏm người lên, beo một chút
thịt bên má như người ta thường làm một cách vô tình khi người ta hỏi
cung hay là kết án. Cặp mắt tập trung tàn lực, ông chất vấn ông giám
mục. Cuộc chất vấn thật là nẩy lửa:

- Thật thế, thưa ông, dân
chúng đau khổ đã lâu đời lắm rồi. Nhưng thôi, đó không phải là vấn đề.
Tôi muốn hỏi ông, ông đến đây chất vấn tôi và nói chuyện Lui XVII để làm
gì? Tôi không quen biết ông. Từ khi đến xứ này tôi luôn ở trong khu
vườn nhỏ này, chỉ một mình, không bước chân ra ngoài, chẳng trông thấy
ai ngoài chú bé giúp việc cho tôi đó. Tên tuổi ông, tôi có phong phanh
nghe đến thật và tôi công nhận rằng những tiếng đồn về ông không đến nỗi
xấu. Nhưng cái ấy cũng vị tất có nghĩa lý gì. Những người khôn khéo có
bao nhiêu cách lấy lòng anh dân đen ngay thật! Nói đến đây mới nhớ rằng
tôi không nghe tiếng xe của ông đến, có lẽ ông để xe ở ngoài khu rừng, ở
chỗ rẽ chăng? Tôi nhắc lại là tôi không biết ông. Ông nói ông là giám
mục, nhưng cái ấy cũng không làm cho tôi biết gì hơn về nhân phẩm của
ông. Tóm lại, tôi nhắc lại câu hỏi của tôi: Ông là ai? Ông là một vị
giám mục, tức là một bậc vương tước trong giáo hội, một khách lầu son
gác tía, có gia huy, có lợi tức, có bổng lộc rất hậu. Tước giám mục
thành Đinhơ lĩnh mười lăm nghìn phơrăng lương chính, mười nghìn phơrăng
lộc, tổng cộng hai vạn rưỡi. Ông có bồi bếp phục dịch, có quân hầu áo
nâu, trên bàn ăn toàn là cao lương mỹ vị, thứ sáu thì xơi chim cuốc, cái
hạng mũ áo nghênh ngang, đi xe ngày hội, có kẻ hầu ngựa nhân danh Chúa
Kirixitô đi chân đất! Ông là một vị trọng chức trong giáo hội. Bổng lộc,
dinh thự, ngựa xe, kẻ hầu người hạ, mỹ vị cao lương, tất cả những thứ
khoái lạc của cuộc sống, ông đều có như những vị trọng chức khác và ông
cũng hưởng thụ như họ. Tốt lắm, nhưng các cái ấy nói nhiều hoặc chưa nói
đủ. Nó không giúp tôi thấy sáng cái giá trị chính, cái giá trị thực
chất của ông, là người có lẽ có tham vọng đến đây để dạy không cho tôi.
Tôi đương nói chuyện với người nào đây? Ông là ai vậy?

Ông giám mục cúi đầu, đáp:
- Một con giun đất. (Nguyên văn Latinh: Vermis sum)
Nhà cách mạng lầm bầm:
- Hừ, giun đất đi xe tứ mã!
Bây giờ đến lượt nhà cách mạng kiêu hãnh, mà ông giám mục thì nhún nhường.
Ông giám mục dịu dàng nói luôn:
- Cũng được. Nhưng xin ông
giải thích cho tôi điều này: Xe của tôi đỗ đằng sau lùm cây vài bước,
bàn ăn của tôi có cao lương mỹ vị, có chim cuốc ngày thứ sáu, bổng lộc
của tôi đến hai mươi lăm nghìn phơrăng, tôi có dinh thự, có kẻ hầu người
hạ, tại sao những thứ ấy lại chứng minh rằng lòng thương người không
phải là một đức tốt, lượng bao dung không phải là một nghĩa vụ và năm 93
không phải là đã quá tàn nhẫn?

Nhà cách mạng đưa tay qua trán như để xua đi một đám mây mù:
- Trước khi trả lời ông, tôi
tha thiết xin ông thứ lỗi cho tôi. Tôi vừa có lỗi. Ông vào nhà tôi, ông
là khách. Tôi có bổn phận phải đối xử lịch sự với ông. Ông không thừa
nhận ý kiến tôi, lẽ ra tôi chỉ cần bác bỏ các luận điểm của ông mà thôi.
Sự giàu sang, hưởng thụ của ông là những ưu thế cho tôi trong cuộc
tranh luận nhưng không dùng đến cái ưu thế ấy mới là lịch sự. Tôi hứa sẽ
không dùng đến nữa.

- Xin cám ơn ông.
Ông G. lại nói:
- Bây giờ thì chúng ta hãy
trở lại cái việc ông yêu cầu tôi giải thích. Chúng ta đã dừng lại ở chỗ
nào nhỉ? Ông đã nói thế nào? Rằng năm 93 quá tàn nhẫn phải không?

- Tàn nhẫn, đúng. Việc Mara (Marat:
một trong những lãnh tụ trứ danh của cách mạng Pháp. Chí công vô tư,
không nhân nhượng đối với kẻ thù của cách mạng. Marat rất được dân chúng
tin yêu)
vỗ tay hoan nghênh cái máy chém, ông nghĩ thế nào?

- Ông nghĩ thế nào đối với việc Bôtxuyê (Bossuet:
giám mục ở triều đình Lui XIV, xuất thân đại quí tộc, đã có nhiều bài
giảng và điếu văn văn hoa và đầy hình ảnh, làm cho văn học sư Pháp kể
ông vào hàng nhà văn; Nguyên văn Latinh: To Deum)
hát bài Tụng chúa cho bọn lính đầu rồng chém chết tín đồ đạo Cải cách?

Câu trả lời thật là độc địa,
nó xỉa ngay vào đích như một mũi kiếm thép. Ông giám mục rùng mình. Ông
không biết đánh trả thế nào, nhưng ông thấy phật ý vì cái cách nói về
Bôtxuyê. Những người sáng suốt nhất vẫn có những thần tượng của họ và
khi luận lý của người khác xúc phạm đến những người họ sùng bái thì họ
cảm thấy như đau.

Nhà cách mạng bắt đầu thở
dốc. Đàm suyễn của người hấp hối chen lấn vào những hơi thở cuối cùng
làm cho lời nói bị đứt quãng. Nhưng nhìn vào cặp mắt người ta thấy tinh
thần của ông hoàn toàn minh mẫn. Ông nói tiếp:

- Tôi còn muốn nói một đôi
câu đây đó nữa. Nói chung cách mạng là một sự tự khẳng định vĩ đại của
nhân loại; than ôi! 93 là một đòn trả miếng. Ông thấy 93 tàn nhẫn, nhưng
còn tất cả thời kỳ quân chủ thì thế nào, thưa ông? Cariê là một tên
tướng cướp, còn Môngtroven thì ông gọi là gì? (Trong câu này và mấy
câu sau, tên đầu chỉ một nhân vật thời cách mạng, tên sau chỉ một nhân
vật thời quân chủ, đều có tên trong lịch sử)
Phukiê Tanhvinh là một
thằng khốn, nhưng đối với Lamoanhông Bavin, ông nghĩ thế nào? Mayda xấu
xa, nhưng còn Xô Tavan? Lão Đuysên hung tợn, thế thì ông định dùng tiếng
gì để gọi lão Lơtenliê? Giuốcđăng – chặt – đầu – người là một con quái
vật, tuy thế hắn còn ít quái hơn là hầu tước Luvoa. Ông ơi, tôi thương
hại Mari Ăngtoanét đại công tước và hoàng hậu, nhưng tôi cũng thương
người đàn bà khốn nạn theo đạo Cải cách dưới triều vua Lui XIV kia. Năm
1685 người đàn bà có con đương bú ấy bị lột trần đến rốn, trói vào một
cây trụ, con chị bị giữ lại cách xa ở trước mặt chị; vú chị ứ đầy sữa,
tim chị ứ đầy đau thương. Đứa hài nhi xanh xao đói khát càng thấy vú
càng kêu la giẫy chết. Tên đao phủ bảo với người đàn bà, người mẹ, người
vú sữa ấy: “Bỏ đạo của mày đi!” Như thế là nó bắt chị hoặc bỏ con chết,
hoặc bỏ tín ngưỡng. Dùng cái khổ hình của Tăngtan (Theo thần thoại
Hy lạp, thì Tăngtan vì xúc phạm thần linh, bị thần linh phạt mãi mãi
đứng bên một dòng sông, dưới cái cây đầy quả. Đói khát quá, đưa tay hái
quả thì cành cây nhích lên cao, cúi xuống uống nước thì dòng sông cạn)
đối
với một người mẹ như thế, theo ý ông, là thế nào? Thưa ông, ông nên nhớ
rằng cách mạng Pháp có những l‎ý lẽ của nó. Đời sau sẽ tha thứ cho cơn
phẫn nộ của nó. Kết quả đem lại là một thế giới tốt đẹp hơn. Nó sát phạt
ghê gớm nhưng kết quả là nhân loại được vỗ về an ủi. Tôi nói vắn tắt
thôi. Tôi xin dừng, bởi vì chân lý ở về phía tôi rõ rệt quá. Vả lại tôi
thấy người tôi sắp chết rồi.

Ông không nhìn ông giám mục nữa; ông kết thúc ý kiến bằng mấy lời bình tĩnh sau đây:
- Những vùng vẫy thô bạo của
tiến hóa là những cuộc cách mạng. Qua rồi, người ta nhìn thấy điều này:
là nhân loại bị giày vò nhưng nhân loại đã tiến lên.

Nhà cách mạng không ngờ rằng
mình vừa lần lượt hạ hết các đồn lũy trong tư tưởng ông giám mục. Tuy
thế, Đức Cha Biêngvơnuy cũng còn một vị trí cố thủ cuối cùng và từ vị
trí ấy ông phóng ra một câu cũng nghiệt ngã như lúc ban đầu:

-
Tiến hóa phải tin ở Chúa. Không thể làm điều lành mà không tín Chúa. Một
người hướng đạo của nhân loại mà theo chủ nghĩa vô thần là một người
hướng đạo hỏng.

Vị
dân biểu già không trả lời. Ông run run. Ông nhìn lên trời và một giọt
lệ tụ dần trong khóe mắt. Khi giọt lệ đã đầy mắt, nó chảy xuống cái má
trắng nhợt; ông nói khe khẽ, nói một mình, gần như bập bẹ, mắt đăm đăm
vào cõi sâu thẳm xa xôi:

- Lý tưởng ơi! Chỉ có mày là có thật!
Ông giám mục thấy trong người rung động một cách khó nói.
Sau giây lát im lặng, ông già chỉ một ngón tay lên trời, nói:
-
Có vô biên. Vô biên ở đấy. Nếu vô biên không có bản ngã , thì bản ngã đã
là giới hạn của vô biên. Nhưng vô biên tồn tại. Như thế là nó có bản
ngã. Bản ngã của vô biên là Chúa.

Ông
già hấp hối nói mấy câu rất to tiếng, giọng rung lên vì ngây ngất say
mê, y như thấy một người nào hiển hiện. Ông nói xong thì nhắm mắt lại.
Ông đã gắng quá nên kiệt sức. Rõ ràng là trong giây phút ấy, ông đã sống
hết cả mấy giờ còn lại của số mệnh ông. Những lời
ông vừa nói kéo ông lại gần với Đấng ở thế giới bên kia. Giờ phút tối hậu đã đến.

Ông
giám mục biết thế. Thời giờ rất là khẩn trương mà ông, ông đến với tư
cách là một cố đạo. Từ chỗ cực kỳ lãnh đạm lúc ban đầu, ông đã dần dần
hóa ra cực kỳ xúc động. Ông nhìn cặp mắt nhắm, ông nắm bàn tay già, nhăn
nheo lạnh buốt, ông nghiêng đầu xuống mặt người hấp hối:

- Giờ phút này là giờ phút của Chúa. Ông có thấy rằng chúng ta gặp nhau mà không được việc gì thì rất đáng tiếc hay không?
Nhà
cách mạng mở mắt. Mặt ông vừa nghiêm trang vừa có vẻ sầm tối. Ông nói
chậm rãi, chậm rãi vì phẩm cách tâm hồn hơn là vì kiệt sức:

-
Thưa ông giám mục, tôi đã trọn đời suy nghĩ, học hành, chiêm niệm. Khi
tôi sáu mươi thì Tổ quốc gọi tôi và ra lệnh cho tôi tham gia việc nước.
Tôi đã tuân lệnh. Đời có tệ hại, tôi đánh đổ tệ hại; có cường quyền, tôi
tiêu diệt cường quyền; có công lý và chính nghĩa, tôi tuyên dương và
truyền giảng công lý và chính nghĩa. Lãnh thổ tổ quốc bị xâm lấn, tôi
chiến đấu bảo vệ lãnh thổ; nước Pháp bị uy hiếp, tôi đem ngực tôi hiến
cho nước Pháp. Trước kia tôi không giàu, bây giờ tôi nghèo. Tôi đã là
một trong những người cầm đầu nhà nước; kho tàng công khố lúc ấy đầy ứ
tiền, đến nỗi phải mang gỗ chống đỡ các bức tường chỉ chực vỡ tung vì
trọng lượng vàng bạc; nhưng tôi vẫn ăn cơm ở phố Cây Khô mỗi bữa hăm hai
xu. Tôi cứu người bị áp bực, tôi vỗ về người đau khổ. Tôi đã xé khăn
phủ bàn thờ Chúa, đúng thế, nhưng là để băng bó những vết thương của tổ
quốc. Tôi luôn ủng hộ nhân loại tiến lên ánh sáng và một đôi khi tôi đã
chống những bước tiến chà đạp lên nhân tính. Cũng có khi tôi bênh vực
cho chính kẻ thù của tôi, là các ông đấy. Ở Phơlăngđrơ, nơi vua chúa
Mêrôvanhgiêng dựng lầu nghỉ mát, có một tu viện; tôi đã bảo toàn cho tu
viện ấy năm 1793. Tôi đem hết sức tôi để làm nhiệm vụ và làm việc phải.
Sau đó tôi bị đuổi đi, bị truy, bị lùng, bị khủng bố, bị bôi nhọ, bị chế
giễu, bị phỉ nhổ, bị nguyền rủa, bị khai trừ ra ngoài vòng pháp luật.
Đã bao năm rồi tôi cảm thấy có khối người tưởng là có quyền khinh bỉ
tôi, mặc dù đầu óc tôi bạc phơ. Quần chúng tối tăm nhìn mặt tôi như nhìn
mặt một tội nhân dưới địa ngục. Tôi không thù hằn ai, tôi cam nhận cảnh
cô độc người ta đã tạo ra cho tôi vì thù ghét. Ngày nay tôi đã tám mươi
sáu tuổi; tôi sắp chết. Thế thì ông đến đây để yêu cầu tôi cái gì?

- Được ban phúc cho ông – ông giám mục nói.
Rồi ông quì xuống.
Khi ông ngẩng đầu lên thì vẻ mặt nhà cách mạng trông rất oai nghiêm. Ông đã qua đời.
Về
nhà, ông giám mục đăm chiêu suy nghĩ. Suốt đêm ông cầu nguyện, sáng hôm
sau một đôi người tò mò đánh bạo hỏi chuyện ông về nhà cách mạng G., ông
giám mục không nói, chỉ đưa tay chỉ lên trời.
Từ độ ấy ông càng yêu thương săn sóc người dân cùng và những kẻ đau khổ.

Ai
nói xa nói gần đến “tên vô lại G.” cũng làm cho ông băn khoăn một cách
kỳ dị. Không ai có thể nói được sự gặp gỡ giữa bộ óc ấy và bộ óc ông,
giữa trái tim lớn ấy và trái tim ông có giúp phần nào cho ông đi đến cái
đạo đức hoàn hảo ngày hôm nay không.

Việc đi thăm tất nhiên là một đầu đề cho các cuộc họp ngồi lê đôi mách ở địa phương. Họ bảo với nhau:
-
Một con người như thế chết, có đáng cho một giám mục đến bên giường để
an ủi không? Quân ấy tất nhiên còn biết cảm hóa theo Chúa là cái gì mà
mong! Cả cái lũ cách mạng ấy là đồ tà đạo. Thế thì còn kể đến làm gì?
Ông đến để xem cái gì ở đấy? Phải công nhận rằng ông giám mục quả thật
là tò mò, ông muốn biết cái cách quỷ sứ bắt linh hồn như thế nào.

Một hôm, một bà quả phụ quí tộc, thuộc cái loại hỗn xược mà tưởng là mình hóm hỉnh, nói với ông câu mỉa mai này:
- Bẩm Đức Cha, người ta muốn biết bao giờ thì Đức Cha đội mũ chụp đỏ.
-
Ồ! Ồ! Đó là một màu sắc to lớn – ông giám mục đáp – Cũng may mà những kẻ
khinh bỉ cái màu đỏ trên mũ chụp lại sùng thượng cái màu đỏ trên mũ có
vành.
(Mũ chụp đỏ là mũ của những người làm cách mạng 1789 đội. Mũ đỏ có vành là mũ của các giáo chủ, chức vị ở trên chức giám mục)
XI


MỘT ĐIỂM GIỚI HẠN


Từ
đó, nếu kết luận rằng Đức Cha Biêngvơnuy la “Một ông giám mục triết gia”
hay là “Một cụ xứ yêu nước” thì có nguy cơ sai lầm. Cuộc gặp mặt, hay
hầu như có thể nói việc giao tiếp giữa ông với nhà cách mạng G., đã để
lại cho ông một sự ngạc nhiên khiến ông càng hiền lành hơn. Thế thôi.

Ông
giám mục chẳng hề là một chính khách. Nhưng ở đây có lẽ cũng nên nói
qua ít lời về thái độ của ông trong các biến cố hồi bấy giờ, cứ giả định
rằng có lúc ông nghĩ phải nên có một thái độ.

Hãy lùi lại mấy năm về trước.
Một
thời gian sau khi ông Mirien được nhắc lên chức giám mục, hoàng đế
phong cho ông tước nam của đế chế, một lần cùng với nhiều giám mục khác.

Mọi người biết, giáo hoàng bị bắt giam tối ngày 5 rạng ngày 6 tháng 7 năm 1809; nhân dịp ấy ông Mirien đượcNapoleon
mời dự hội nghị các giám mục hai nước Pháp và Ý triệu tập ở Paris. Hội
nghị mở tại nhà thờ Đức Bà và họp lần đầu tiên ngày 15 tháng 6 năm 1811
dưới quyền chủ tọa của Đức giáo chủ Phếch. Ông Mirien là một trong chín
mươi lăm giám mục đã đến dự. Nhưng ông chỉ dự một phiên họp toàn thể và
ba bốn cuộc họp chuyên đề. Vốn là giám mục một địa phận núi non, gần gũi
thiên nhiên, quen sống quê mùa và nghèo khó, hình như ông đã đem đến
giữa những nhân vật thương lưu kia nhiều ý nghĩ làm thay đổi thời tiết
của hội nghị. Không mấy ngày sau ông đã trở về Đinhơ. Có người hỏi vì
sao ông về sớm thế, ông đáp:

- Có tôi phiền cho các ngài ấy. Không khí bên ngoài theo tôi và đến với các ngài. Tôi có vẻ như một cái cửa mới.
Một lần khác ông nói:
- Tôi chịu thôi, các ông lớn ấy là những ông hoàng, còn tôi, tôi chỉ là một anh giám mục nông dân hèn hạ.
Sự
thật là người ta không thích ông. Ngoài những chuyện kỳ dị khác, hình
như có một tối ở nhà một đồng nghiệp tiếng tăm, ông đã buột mồm kêu lên:

-
Đồng hồ đẹp quá! Thảm lót đẹp quá! Kẻ hầu người hạ đồng phục đẹp quá!
Sao mà chói mắt thế! Chao ôi! Ước gì những thứ thừa thãi kia khỏi nheo
nhéo mãi bên tai: còn có bao nhiêu người chịu đói! Còn có bao nhiêu
người chịu rét! Còn biết bao kẻ khó! Biết bao kẻ khó!

Xin
nói qua là thù ghét sang trọng không phải là một sự thù ghét thông
minh. Vì thù ghét như thế hàm ý là thù ghét nghệ thuật. Tuy nhiên, đối
với kẻ tu hành, ngoài sự tiếp khách và các lễ lạc, thì sa hoa là sai
lầm. Dường như nó phơi bày ra những thói quen ít thật sự thương người.
Là cố đạo mà giàu sang thì ngược đời. Nhà tu hành phải ở bên cạnh kẻ
khó. Có thể nào gần gũi mãi cả ngày lẫn đêm, tất cả mọi nguy khốn, mọi
bất hạnh, mọi sự nghèo hèn, mà không dính trên mình một tí gì của cái
khốn khổ thiêng liêng kia như bụi đất của lao động được chăng? Có ai
hình dung được một người đứng cạnh bếp lửa mà không thấy nóng? Có ai
hình dung được một người thợ luôn luôn làm việc bên lò than, mà không hề
có lấy một sợi tóc sém, một móng tay dính bụi, một giọt mồ hôi, tí tro
trên mặt? Một cố đạo, nhất là một ông giám mục mà thương người thì bằng
chứng thứ nhất là ông ta nghèo.

Đó có lẽ là cách suy nghĩ của ông giám mục.
Xin
đừng nghĩ rằng ông ta tán thành ở một số khía cạnh tinh vi, cái mà
chúng ta gọi là “tư tưởng của thời đại”. Ông ít xen vào các cuộc tranh
cãi về giáo lý thời bấy giờ và không phát biểu ý kiến gì về các vấn đề
mà Nhà thờ và nhà nước đang dính vào; nhưng giá thúc ép lắm thì lại hình
như sẽ thấy ông là người theo giáo hội La Mã hơn là người the
o giáo hội Pháp. Chúng tôi đang mô tả người ông và không muốn giấu một cái gì cả, nên chúng tôi đành nói thêm rằng, đối với Napoleon
lúc suy, ông tỏ ra lãnh đạm. Bắt đầu từ 1813, ông tham gia hoặc tán
thành tất cả các biểu hiện phản đối. Lúc hoàng đế từ đảo Enbơ trở về,
ông từ chối không ra bệ kiến khi người ta đi ngang qua vùng và trong
thời kỳ “Bách nhật”, ông không ra lệnh cầu kinh cho hoàng đế trong địa
phận mình.
(Napoleon
sau khi bị ngoại xâm và nội phản bức bách phải thoái vị năm 1814 thì ra
ở đảo Enbơ. Năm 1815 ông lại trở về, đuổi vua Lui XVIII và làm vua lại
được 100 ngày. Bại trận ở Oateclô, ông mới mất hẳn ngôi)

Ngoài
cô Baptistin là em gái ra, ông còn hai người em nữa: một làm tướng, một
là tỉnh trưởng. Ông thường hay viết thư cho cả hai. Với người thứ nhất:
một độ ông tỏ ra nghiêm khắc. Lý do là vì ông em này nhân có nắm quyền
chỉ huy ở Prôvăngxơ vào lúc

Napoleon đổ bộ lên Cannơ, đã dẫn một đạo quân một nghìn hai trăm người
đuổi theo hoàng đế theo lối đuổi để cho người ta thoát. Trong thư từ gửi
cho ông em kia, ông tỏ ra thân yêu hơn, ông này trước kia làm tỉnh
trưởng, nay thì là một người tốt, đứng đắn, ở ẩn ở Paris, phố Catxet.

Bản
thân Đức Cha Biêngvơnuy như vậy là cũng có lúc thiên vị, có lúc buồn
nản, tâm hồn như có mây che. Bóng tối của những ham mê từng lúc lướt qua
đầu óc hiền lành và vĩ đại, thường xuyên chăm lo những vấn đề của vĩnh
viễn. Lẽ ra một người như thế đúng là không nên có chính kiến. Xin đừng
hiểu lầm về ý này, chúng tôi không lẫn lộn cái gọi là “chính kiến” với
hoài bão sâu xa về tiến bộ, với lòng tin tưởng cao quí tổ quốc, dân chủ
và nhân đạo, những c
ái
mà ngày nay phải làm cơ sở cho mọi tấm lòng bác ái. Không đi sâu vào
những vấn đề không liên quan trực tiếp đến chủ đề của sách này, chúng
tôi chỉ nói đơn giản như sau: tốt đẹp hơn, nếu Đức Cha Biêngvơnuy không
phải là người bảo hoàng và mắt ông đừng một phú
t
nào rời bỏ sự chiêm ngưỡng thanh tĩnh; ở đó, vượt qua những bóng mây
giông tố lớp lớp lại qua của cuộc đời trần tục, vẫn sáng tỏ như ban ngày
ba ánh sáng tinh thần là Chân lý, Chính trực và Nhân đạo.


công nhận Chúa không sinh giám mục Biêngvơnuy ra để làm chính trị, chúng
ta vẫn có thể hiểu ông và khâm phục ông, giá như ông phản kháng và
chống đối Napoleon thuở hùng cường, phản kháng và tự do và chính nghĩa,
cũng như chống đối một cách kiêu hãnh và chính đáng nhưng nguy hiểm.
Nhưng điều ta thích khi điều đó được áp dụng đối với kẻ đang lên, ta lại
không thích nếu áp dụng đối với người rơi xuống. Chúng ta chỉ thích đấu
tranh chừng nào đấu tranh còn nguy hiểm. Và bao giờ cũng vậy, chỉ riêng
những chiến sĩ buổi đầu mới có quyền làm người thanh toán giờ chót. A
i
chưa từng là kẻ buộc tội gay gắt đối phương trong thời thịnh vượng của
nó, thì khi nó sụp đổ, nên làm thinh. Chỉ có kẻ tố cáo sự thành công mới
xứng đáng làm người phán xử hợp pháp sự sụp đổ? Về phần chúng tôi, khi
đấng Cứu thế can thiệp và trừng phạt thì chúng tôi cứ im lặng để cho
Người làm. Cứ chứng kiến năm 1812 là chúng tôi thấy không muốn đánh
người ta nữa rồi
(Năm 1812, dấu hiệu suy sụp của Napoleon bắt đầu hiện rõ với cuộc đại bại ở Nga).
Đến năm 1813, cơ quan lập pháp xưa nay ít nói bỗng nhiên lên tiếng một
cách hèn nhát vì đã được những tai họa của đế chế khuyến khích. Đó là
một việc chỉ đáng khinh bỉ, cho nên vỗ tay hoan hô là sai. Năm 1814,
trước lũ thống chế phản bội, trước cái thượng nghị viện ngã từ cái đống
bùn nhơ này sang đống bùn nhơ kia, tôn thờ đó rồi chửi bới đó, trước sự
sùng bái vừa rút lui vừa phỉ nhổ lên thần tượng, bấy giờ bổn phận ta là
phải làm ngơ. Năm 1815, trong khi những đổ vỡ cuối cùng như đang treo
trên đầu, cả nước Pháp rùng mình cảm thấy nó đang đến gần một cách dễ
sợ, trong khi có thể lờ mờ nhìn thấy Oateclô đang mở chờ Napoleon, thì
quân đội và nhân dân mà có hoan hô một cách đau xót con người đã bị số
mệnh lên án, cái đó cũng chẳng có gì đáng cười. Và, sau khi đã có ý kiến
về kẻ độc tài, người có trái tim như ông giám mục thành Đinhơ không thể
nào không biết rằng, ngay trên bờ vực thẳm, mà một con người vĩ đại và m
t quốc gia vĩ đại còn ôm chặt nhau như thế thì cái đó phải nói là cao cả và cảm động.

Trừ
cái đó ra, ông vốn là thế và lúc nào cũng thế; trong bất cứ việc gì
cũng công bằng, chân thật, phải chăng, thông minh, khiêm tốn và đứng
đắn; hay làm điều lành và độ lượng, mà độ lượng cũng là một kiểu làm
điều lành. Đúng là một nhà tu hành, một nhà hiền triết, một con người.
Cũng cần phải nói, ngay trong cái chính kiến mà chúng tôi vừa chê trách
và sẵn sàng phê phán một cách nghiêm khắc, ông cũng rộng lượng và dễ
dãi, có lẽ còn hơn chúng tôi, người đang kể chuyện đây. – Người gác cổng
nhà hội hương là một người được hoàng đế bổ dụng. Ông ta là một hạ sĩ
quan già trong đoàn cựu vệ binh, một lính xung kích ở Auxteclit, trung
thành với Bônapac cũng như con phượng hoàng trên cán cờ đế chế. Gặp dịp,
ông già khốn khổ này bật ra nhiều câu nói thiếu suy nghĩ mà luật pháp
hồi đó gọi là ngôn ngữ phiến loạn. Từ cái hình nghiêng của hoàng đế vắng
bóng trên huân chương bắc đẩu bội tinh, ông ta không bao giờ chịu mặc
lễ phục như ông nói, để khỏi phải đeo chiếc huân chương của mình. Ông ta
đã thành kính tự tay mình cạy đi hình ảnh ấy trên chiếc huân chương mà
Napoleon đã trao cho mình, khiến cho chiếc huân chương bị thủng một lỗ,
nhưng ông không muốn thay vào đó một cái gì cả. Thà ta chết – ông nói – chứ nhất định không mang trên trái tim ta ba con cóc
(Ba cái hoa huệ khắc trên mặt huân chương, biểu trưng của vương triều Buốcbông).Ông sẵn sàng chế giễu công khai Lui XXIII. Thằng già thấp khớp đi ủng Anh! – Ông ta nói – cho nó chuồn sang Phổ với món của cải của nó đi! Ông
ta lấy làm sung sướng được tóm thu cả hai cái mà ông ghét nhất, nước
Phổ và nước Anh trong cùng một lời chửi. Ông ta hăng quá đến nỗi mất
việc làm. Thế là bị vứt ra vỉa hè với cả vợ lẫn con, không kế sinh nhai.
Ông giám mục gọi đến, quở trách nhẹ nhàng và xếp ông ta vào chân gác
cổng nhà thờ lớn.

Ông Mirien đúng là người chăn chiên, người bạn của tất cả mọi người trong địa phận mình.
Trong
vòng chín năm, nhờ những việc làm phúc đức, cách cư xử hiền hòa của Đức
Cha Biêngvơnuy cho nên đối với Đức Cha, trong thành phố như tràn đầy
một niềm tôn kính dịu dàng của con cháu đối với ông cha. Thái độ của ông
đối với Napoleon cũng được công nh
n
và nhân dân mặc nhiên thể tình cho ông về khoản đó, vì vốn là một đàn
cừu yếu đuối, họ tôn thờ hoàng đế nhưng cũng kính yêu Đức Cha của họ.

XII


SỰ CÔ QUẠNH CỦA ĐỨC CHA BIÊNGVƠNUY


Chung
quanh một ông giám mục hầu như bao giờ cũng có một đám tu sĩ mới vào
nghề, cũng như chung quanh một tướng lĩnh bao giờ cũng có một đoàn sĩ
quan trẻ. Chính họ là những người mà thánh Phơrăngxoa đơ Xan đáng yêu đã
gọi ở một chỗ nào đó là “những nhà tu hành mới
gạy mở”.
Nghề nghiệp nào cũng có những kẻ tập sự kéo từng đoàn theo sau những
người thành đạt. Chả một thế lực nào mà chẳng có người chầu hầu. Bao
nhiêu kẻ tìm kiếm tương lai quay cuồng chung quanh cái hiện tại huy
hoàng. Bất cứ đô thành nào cũng có bộ tham mưu. Bất kỳ ông giám mục có
thế lực nào cũng có bên cạnh mình đoàn trẻ thơ của chủng viện. Bọn này
tuần tra và giữ gìn trật tự trong lâu đài giám mục, cũng như canh hầu
chung quanh nụ cười của Đức Cha. Được lòng đức giám mục là bàn đạp danh
vọng cho một thầy tu trẻ. Ở đời cũng phải biết cách tiến thân; truyền
đạo mà thêm nhiều bổng lộc càng tốt.

Ngoài
đời có những người áo dài thì trong đạo cũng có những kẻ mũ cao. Đó là
những giám mục đắc sủng, giàu có, nhiều lợi tức, khôn khéo và được xã
hội quyền quí chấp nhận. Họ biết cầu kinh, hẳn thế, nhưng cũng biết cầu
cạnh và chẳng ngại ngùng gì trong việc bắt cả một địa phận phải chầu
chực mới gặp được mình. Họ là dấu nối giữa nhà thờ và ngoại giao, tu sĩ
hơn là giáo sĩ, chức sắc tòa thánh hơn là giám mục. Hạnh phúc thay những
ai được đến gần họ! Là những người được tín nhiệm và có quyền thế, họ
vung tay ban phát tứ tung cho mọi kẻ xun xoe, cầu cạnh, mọi kẻ được sủng
ái, cho tất cả đám người trẻ trung biết mua lòng họ, những xứ béo bở,
những chức vị có bổng lộc, có quyền xét xử, những chức tuyên úy, những
chức phục dịch nhà thờ, trong khi chờ đợi các chức vị ở tòa giám mục. Họ
vừa tiến lên lại vừa kéo mọi kẻ xoay quanh mình cũng tiến lên, y như
một thái dương hệ đang vận chuyển. Ánh sáng rực rỡ từ người họ nhuốm đỏ
cả đoàn tùy tùng. Giàu sang của họ chia thành miếng nhỏ cho bao nhiêu kẻ
trong hậu trường, mỗi người được thăng quan tiến chức tí chút. Chủ, địa
phận to hơn, thì tớ yêu, xứ cũng lớn hơn. Và La
Mã cũng gần thôi. Một ông giám mục biết cách để lên giáo chủ, h
sẽ lôi ngài đi dự đại hội tuyển cử giáo hoàng và ngài bước vào thẩm
viện, ngài có dải quàng trắng, ngài có ghế dự thính, ngài thành đại chức
sắc tòa thánh hầu cận giáo hoàng, ngài thành đại chức sắc tòa thánh và
từ giám mục lên giáo chủ chỉ có một bước và từ giáo chủ lên giáo hoàng
cũng chỉ nhoáng qua một cuộc bỏ phiếu. Bất kỳ giám mục nào cũng có thể
mơ ước làm giáo hoàng. Và ngày nay, người cố đạo là người độc nhất có
khả năng lên làm vua một cách hợp thức. Mà lại là vua tối cao. Do đó,
còn vườn ươm khát vọng nào tốt hơn một chủng viện! Bao chú bé phụ lễ còn
hổ thẹn trước mọi người, bao tu sĩ còn trẻ măng, mà đã có trên đầu một
lọ sữa của Peret!
(Liên hệ bài thơ ngụ ngôn nổi tiếng của La Fonten)
Vì tham vọng dễ dàng đội lốt của thiên hướng cho nên ai mà biết được?
Có khi là thực tâm và mình tự lừa dối mình, vì vốn là ngoan đạo kia mà!

Đức
Cha Biêngvơnuy, khiêm tốn, nghèo nàn, biệt lập, nên không được dự vào
hàng những vị mũ cao. Điều đó rất rõ vì chung quanh ông không hề thấy
bóng một nhà tu hành trẻ trung nào cả. Người ta đã từng thấy hồi lên
Paris “ông không chịu cắn câu”. Vì thế không một ai muốn có tương lai
lại đến ghép mình với một ông già cô độc. Không một mầm tham vọng nào
lại dại dột muốn mọc xanh tươi dưới
bóng cớm
của ông. Các chức sắc tòa giám mục cũng như các linh mục quan trọng của
ông đều là những cụ già hiền hậu, ít nhiều bình dân như ông, đóng khung
mình trong cách địa phận không có đường lên hàng giáo chủ, họ cũng
giống ông giám mục của họ, chỉ khác một điều là họ thì yên phận, còn ông
thì yên vui. Người ta đều thấy rõ không tài nào có thể lớn lên được bên
cạnh ông, đến nỗi, vừa chân ướt, chân ráo ra khỏi chủng viện, các thanh
niên được ông phong chức, đều chạy chọt nhờ người giới thiệu với các
đại giám mục ở Etxơ hay ở Osơ, rồi vội vã lánh đi. Bởi vì, xin lặp lại
điều này, người ta đều muốn được dấy lên. Một ông thánh ưa sống trong
cảnh hy sinh khắc khổ, thì ở gần ông là nguy hiểm; ông ta có thể san cho
mình theo cách truyền nhiễm cái bệnh nghèo khó không chữa được, làm tê
dại các khớp xương cần thiết để bước tới, tóm lại nó truyền nhiễm nhiều
thứ từ bỏ hơn mình muốn. Cho nên người ta đều lánh xa thứ đạo đức hay
lây như vậy. Do đó mới có cảnh cô quạnh của Đức Cha Biêngvơnuy. Chúng ta
đang sống trong một xã hội đen tối. Đạt được mục đích, đó là bài học
rơi xuống từng giọt từ sự thối nát sừng sững như núi.

Cũng
nói qua một lời rằng thành đạt là một điều khá xấu xa. Bên ngoài, kẻ
thành đạt có vẻ giống người có tài năng, nên người ta dễ lầm lẫn. Đối
với quần chúng, thành công nhìn nghiêng cũng có dáng như lỗi lạc. Thành
đạt, mặt mày tương tự như tài ba và có một kẻ bị nó lừa dối: đó là lịch
sử. Chỉ Giuyvênan và Taxit là kêu ca phản kháng. Nhưng trong thời đại
chúng ta, một thứ triết học gần như chính thức đã vào làm gia thần cho
nó, mặc đồng phục của nhà nó và làm kẻ thường trực ở phòng chờ. Hãy đạt
cho được mục đích: đó là tất cả các học thuyết. Thịnh đạt có nghĩa là
khả năng. Anh trúng số tức anh là người khôn khéo. Kẻ nào chiến th
ng,
kẻ ấy được trọng vọng. Anh cứ sinh ra đủ mũ mão, tất cả là ở chỗ đó. Có
số đỏ là rồi có tất; anh mà sung sướng thì người ta sẽ cho là anh cao
thượng. Chỉ trừ năm hay s
áu
ngoại lệ vĩ đại mà ánh sáng chói rực cả thế kỷ, còn thì sự khâm phục
của thời đại chẳng qua là cận thị. Núc nác thì thành vàng tâm. Vô danh
tiểu tốt cũng không sao, miễn là thành danh. Kẻ tầm thường là một anh
Nácxit già tự khen mình và tán thưởng cái tầm thường. Cái khả năng vĩ
đại làm nên Môidơ, Etsin, Đăngtơ, Miken Lăng hoặc Napoleon, rất đông
người đem nó tặng một cách đương nhiên và còn hoan hô thêm những ai đạt
đến đích trong bất kì công việc gì. Hãy xem: một chưởng khế đổi dạng
thành nghị viên; một anh giả Coócnây viết ra Tiridat; một hoạn quan đi đ
ến
chỗ chiếm đoạt hậu cung; một viên tướng tầm thường ngẫu nhiên thắng
được trận quyết định của một thời; một anh bào chế dược liệu làm được đế
giày các-tông cho quân đoàn Xămbrơ và Mơdơ và do chỗ bán mạo các-tông
làm da ấy, tạo ra cho mình một khoản lợi tức bốn mươi vạn phơrăng; một
tên buôn chạy lấy nghề cho vay cắt cổ mà đẻ ra được bảy tám triệu; một
thầy giảng trở thành giám mục nhờ giọng nói ngạt mũi; một tay quản gia
vừa thôi việc thì giàu đến nỗi được cử làm bộ trưởng tài chính. Người
đời gọi thế là Thiên tài, cũng như họ gọi khuôn mặt của Mutscơtông là
Thần đẹp và cái cổ của Cơlốt là Chí tôn. Quả là lẫn lộn tinh tú thăm
thẳm trên trời với hình sao do chân vịt in trên đất bùn lầy lội.


Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:17 pm

XIII


ÔNG TIN GÌ


Về
phương diện tin tưởng chính thống, chúng tôi không phải thăm dò ông giám
mục thành Đinhơ. Trước một tâm hồn như vậy, chúng tôi cảm thấy chỉ có
một xu hướng là tôn kính. Nói đến lương tâm một bậc chính trực là ta
phải tin. Vả lại, đối với một số bản chất nhất định, chúng tôi công nhận
rằng tất cả những vẻ đẹp của đạo đức con người đều có khả năng phát
triển được trong một lòng tin khác với lòng tin của chúng tôi.

Ông giám mục nghĩ gì về tín
điều này hay về bí ẩn nọ? Những điều bí mật trong thâm tâm ấy chỉ có thể
biết được ở trong mồ vì khi bước xuống mồ mọi linh hồn đều trần trụi.
Điều mà chúng tôi chắc chắn là, với ông, không bao giờ những mắc mứu về
đức tin lại biến thành một thái độ giả dối. Đã là kim cương thì không
còn có thể nói đến thối nát được. Ông tin được chừng nào thì ông cố gắng
tin chừng ấy. Hãy tin ở Chúa Cha là câu ông thường nói ở cửa miệng (Nguyên văn Latinh: Credo in Patrem).
Bởi vì ông đã tìm thấy trong những việc làm phúc đức của mình một sự
thỏa mãn đầy đủ cho tâm hồn, nó luôn thì thầm bên tai ông: Chúa Trời ở
bên cạnh người.

Điều chúng tôi thấy cần ghi
là, ông giám mục có một lòng yêu thương quá mức, có thể nói ngoài đức
tin và xa hơn đức tin. Chính từ chỗ ông “đã yêu nhiều” (Nguyên văn
Latinh: Quia multum amavit) đó mà các “bậc đứng đắn”, các “bậc trang
nghiêm”, các “vị biết điều” đều đánh giá ông là có nhược điểm. Những
danh từ trên là cách nói ưa chuộng trong cái xã hội đáng buồn của chúng
ta, ở đó lòng vị kỷ lại nói cái giọng của kẻ lên mặt hiểu biết. Thương
yêu quá mức ở đây là cái gì? Đó là một sự ân cần trong sáng, tràn qua
giới hạn loài người, như chúng tôi đã có lúc nói qua và gặp dịp thì trùm
lên cả sự vật. Ông sống dễ dãi. Cái gì là sáng tạo của Chúa, ông đều
khoan dung. Trong con người dù là con người rất tốt đi nữa, cũng có một
chút khắc nghiệt không tự giác dành cho loài vật. Các nhà tu hành đặc
biệt có thứ khắc nghiệt, nhưng ông giám mục thành Đinhơ lại không hề có.
Ông không đến nỗi như thầy tu bà-la-môn, nhưng hình như ông có nghiền
ngẫm lời này trong sách kinh: “Ai biết linh hồn thú vật sẽ đi về đâu?”
Dáng hình xấu xí, bản năng kỳ dị, không làm ông bận tâm, cũng không làm
ông phật ý. Nhìn thấy thế ông cảm động, gần như mủi lòng. Có vẻ như ông
trầm tư suy nghĩ, bỏ qua cái bề ngoài để tìm đến cái nguyên nhân, cách
giải thích hoặc lời thanh minh. Có lúc dường như ông cầu xin Chúa một số
đổi thay. Với con mắt của nhà ngôn ngữ lần mò từng nét bản thảo trên da
thú thời xưa, ông bình tĩnh xem xét bao nhiêu cái hỗn độn hiện còn
trong tạo vật. Cách suy tưởng mơ màng ấy nhiều lúc làm ông bật ra những
lời kỳ lạ. Một buổi sáng ông đang ở ngoài vườn; ông tưởng chỉ có một
mình, không ngờ có cô em đi sau mà ông không biết; đột nhiên, ông đứng
lại và nhìn xuống đất; một con nhện to tướng, đen thui, lông lá xồm xoàm
ghê tởm đang nằm trên mặt đất. Cô em nghe rõ ông nói:

- Ồ, con vật đáng thương! Không phải lỗi của nó.
Những cử chỉ từ bi có vẻ là
trò trẻ con mà gần như thiêng liêng ấy, tại sao lại không nói đến? Trẻ
con, vâng: nhưng thứ trẻ con cao cả ấy chính là của thánhPhơrăngxoa
Đatxidơ và của Mác Ôren. Một hôm ông bị sai khớp chân vì không nỡ giẫm
lên một con kiến.

Con người chính nhân quân tử
ấy sống cuộc đời như thế đó. Thỉnh thoảng ông lại ngủ ngay ngoài vườn
và những lúc ấy trông ông không còn gì đáng tôn kính hơn.

Có những lời người ta kể về
thời niên thiếu, cả về thời trai tráng của ông thì Đức Cha Biêngvơnuy đã
từng là một con người say đắm, có thể là dữ dội nữa. Lòng thương mênh
mông ở ông chẳng phải là một bản năng tự nhiên mà là kết quả của một
lòng tin vững chắc, cao cả, lọc qua cuộc đời và từng ý nghĩ, đọng lại
trong trái tim ông. Bởi vì, trong tính cách một con người cũng như trong
một tảng đá, cũng có thể có những lỗ sâu do nước giọt mãi mà tách ra.
Thứ hang hốc như thế không bao giờ mất; cách hình thành như vậy không gì
tiêu hủy được.

Năm 1815, tưởng như chúng
tôi đã nói điều này rồi, ông đã bảy mươi lăm tuổi, nhưng trông ông không
quá sáu mươi. Người ông không to, có hơi phát phì một tí và để chống
lại ông thường hay đi bộ xa; bước chân hãy còn chắc và lưng chẳng gù mấy
tí; điều này chúng tôi chẳng dám kết luận là gì cả, vì Gơrêgoa thứ XVI,
tám mươi mà người vẫn đứng thẳng, mặt mày vẫn tươi cười, nhưng cái đó
chẳng cấm ông ta là một giám mục tồi. Dân chúng cho là Đức ChaBiêngvơnuy
có “cái đầu quí”, nhưng vì nó dễ yêu quá nên người ta quên rằng nó đẹp.

Lúc nói chuyện, tính ông vui
như trẻ con, đó là một nét đáng yêu ở ông mà chúng tôi đã nói đến. Và
những lúc như vậy người ở gần ông đều thấy dễ chịu, vì từ cả người ông
như toát ra một niềm vui. Mặt mày hồng hào và tươi tắn, miệng cười để lộ
hàm răng còn nguyên và trắng trẻo, làm cho ông có vẻ cởi mở và dễ gần.
Cái vẻ như thế một người đứng tuổi thì người ta bảo: thật là một người
dễ thương, còn ở một người già thì người ta lại bảo: thật là một cụ già
phúc hậu. Mọi người còn nhớ, Napoleon lúc gặp ông đã có cảm tưởng ấy.
Mới gặp và tiếp xúc lần đầu, người ta cũng chỉ thấy ông là một cụ già
phúc hậu mà thôi. Vậy mà ngồi bên ông chừng ít tiếng đồng hồ và chỉ cần
thấy ông suy tưởng, thì ông cụ già phúc hậu biến đổi dần dần và có một
cái gì hùng vĩ. Vừng trán rộng và nghiêm, có mớ tóc bạc làm thêm vẻ cao
cả, càng trở nên cao cả vì sự trầm tư. Vẻ uy nghi toát ra từ sự phúc
hậu, mà sự phúc hậu cũng không ngừng ngời sáng. Người ta cảm thấy xúc
động như đứng trước một thiên thần tươi cười, vừa thong thả dang to đôi
cánh vừa không ngớt mỉm cười. Một niềm kính mến khó tả, từng bước như
thấm vào người chúng ta, dâng lên trái tim và chúng ta cảm thấy đứng
trước một tâm hồn mãnh liệt, từng trải và bao dung, trong đó tư tưởng vĩ
đại đến mức chỉ còn có thể là hiền từ.

Như mọi người đã thấy, cầu
kinh, hành lễ, làm phúc, an ủi kẻ đau buồn, trồng trọt một mảnh vườn,
lòng bác ái, tính thanh đạm, mến khách, từ chối xa hoa, lòng tin tưởng,
học hỏi, làm việc, tất cả những cái đó làm cho ngày nào trong đời ông
cũng đầy ắp công việc. Đầy ắp, nói như thế mới đúng, bởi vì quả
nhiên, ngày đó tràn đầy những ý nghĩ tốt đẹp, những lời nói tốt đẹp,
những hành động tốt đẹp. Tuy nhiên, như vậy cũng chưa là trọn vẹn nếu vì
thời tiết lạnh hay trời mưa mà tối đến ông không ra dạo vườn một hoặc
hai giờ trước khi đi ngủ và sau khi hai bà phụ nữ đã về buồng mình. Suy
tưởng trầm ngâm trước những cảnh tượng hùng vĩ của bầu trời ban đêm rồi
mới ngủ yên, việc đó hình như đã thành một nghi lễ đối với ông. Đôi khi,
vào lúc trời đã về khuya, hai bà mà không ngủ được, thì lại nghe bước
chân ông chậm rãi trên các lối đi. Ông ở đó một mình với bóng, tĩnh tâm,
than thản, thành kính, đem so với cái thanh tĩnh của lòng mình với cái
thanh tĩnh của không trung, xúc động trong bóng tối trước mọi huy hoàng
trông thấy được của tinh tú và mọi huy hoàng không trông thấy được của
Chúa Trời, tâm hồn rộng mở cho mọi tư tưởng rơi xuống từ cõi Không tên.
Trong những lúc ấy, đem dâng trái tim mình vào giờ phút các hoa đêm tỏa
hương thơm, sáng ngời như ngọn đèn giữa đêm sao, hòa mình say sưa giữa
cảnh chói sáng mênh mông của tạo vật, chính ông cũng khó lòng nói được
cái đang xảy ra trong tâm trí mình. Ông có cảm tưởng như có gì bay khỏi
người mình và cũng có gì giáng hạ vào đó. Đúng là những sự trao đổi thần
bí giữ những hố sâu của tâm hồn với những hố sâu của vũ trụ!

Ông nghĩ đến sự vĩ đại và có
mặt của Chúa; đến cái vĩnh viễn sắp đến, bí mật kỳ lạ; đến cái vĩnh
viễn đã qua, bí mật còn kỳ lạ hơn; đến tất cả những cái vô biên đang
chìm sâu trước mắt ông trên khắp hướng và, không tìm hiểu cái không hiểu
được, ông chỉ đưa mắt nhìn. Ông không nghiên cứu Chúa Trời, ông tự để
cho mình lóa mắt nhìn Chúa. Ông chiêm ngưỡng những sự kết hợp rực rỡ của
các nguyên tử, nó đem lại sắc hình cho vật chất, nó phát hiện ra các
lực lượng, nó tạo ra các cá tính trong sự thống nhất, các kích thước
trong không gian, cái vô số trong vô hạn và do ánh sáng mà làm ra vẻ
đẹp. Những sự kết hợp này hợp với tan liên tục; từ đó sinh ra sự sống và
cái chết.

Ông ngồi trên một chiếc ghế
gỗ kê áp vào cái giàn đã mục, để nhìn trời sao qua hình bóng khẳng khiu,
cằn cỗi của cái cây ăn quả. Mấy thước đất trồng trọt quá sơ sài, lổn
nhổn những lều lán, rất thân thiết đối với ông và ông lấy thế làm đủ.

Còn có gì cần thêm cho ông
già ấy nữa, khi ông đem thì giờ rỗi rãi trong cuộc đời, đã rất ít rỗi
rãi của ông, ra chia cho việc làm vườn ban ngày và việc chiêm ngưỡng ban
đêm? Khoảng vườn rào kín, chật hẹp này, có trời xanh làm trần trên đầu,
há không đủ để ca ngợi Chúa lần lượt trong những công trình đẹp đẽ nhất
và những công trình cao cả nhất chăng? Như thế chưa phải là tất cả hay
sao? Còn đòi gì hơn nữa? Một mảnh vườn con để dạo chơi và cõi bao la để
mộng tưởng. Ở dưới chân là những cái có thể trồng trọt và thu hoạch;
trên đầu là những cái có thể nghiên cứu và suy tưởng; một ít hoa dưới
đất và tất cả sao trên bầu trời.


XIV


ÔNG NGHĨ GÌ?


Một lời cuối cùng.
Loại chi tiết nói trên, đặc
biệt trong thời gian chúng ta đang sống đây, có thể đem đến cho ông giám
mục thành Đinhơ một dáng dấp, “phiến thần”, theo cách nói hiện nay đang
thịnh hành. Điều đó khiến người ta hoặc chê hoặc khen, nhưng đều nghĩ
rằng ông có một trong những thứ triết học, riêng chỉ thời đại chúng ta
mới có và thỉnh thoảng thấy nẩy mầm trong những bộ óc cô độc, bám rễ vào
đó và lớn lên dần đến mức thay thế cho các tôn giáo. Chúng tôi đều nhấn
mạnh điều này là không một ai trong số những người có biết Đức Cha
Biêngvơnuy lại dám cho rằng mình có thẩm quyền để nghĩ như vậy. Ngọn lửa
soi sáng con người này là trái tim. Trái tim đã tuôn ra ánh sáng để làm
nên đức độ của ông.

Chẳng có học thuyết nào cả,
chỉ có nhiều hành động. Những thuyết lý cao xa, khó hiểu làm cho người
ta choáng váng; chẳng có dấu hiệu gì là ông đem trí óc dấn vào những thứ
viễn tưởng mù mờ. Người tông đồ có thể bạo phổi, nhưng ông giám mục cần
phải dè dặt. Chắc chắn là ông đã tự bảo mình phải thận trọng đừng đi
quá sâu vào một số vấn đề có lẽ chỉ dành cho những đầu óc lớn và táo
tợn. Dưới cổng tò vò của bí điều có sự ghê sợ linh thông; những cửa ngõ
tối om ấy mở toang hoác đấy, nhưng có gì như nói với ta, những kẻ bộ
hành trên đời, rằng không nên vào đó. Ai vào đó sẽ gặp tai họa. Trong
chỗ cao sâu khôn tả của trừu tượng và thuyết lý đơn thuần, những thiên
tài, có thể nói là đứng trên các giáo điều, đề nghị ý mình lên Chúa. Lời
cầu Chúa của họ đồng thời là một lời đề nghị táo bạo xin tranh luận. Sự
tôn sùng của họ cũng là cách chất vấn. Đó là tín ngưỡng trực tiếp, đầy
lo ấu và trách nhiệm của những ai muốn thử trèo những đỉnh cao chênh
vênh của tôn giáo.

Sự suy nghĩ trầm tư của con
người không có giới hạn nào. Hoàn toàn chịu trách nhiệm về công việc của
mình, nó phân tích và đi sâu vào sự bừng sáng của chính mình. Có thể
nói rằng, do một thứ phản lực tốt đẹp, nó làm cho cả tạo vật cũng chói
lòa; thế giới bí ẩn chung quanh ta hễ nhận cái gì là có trả lại, cho nên
có phần chắc là những người chiêm ngưỡng lại được người ta chiêm
ngưỡng. Dù sao, trên đời cũng có những con người – phải chăng đó là
những con người? – Nhìn thấy rất rõ ở chân trời sâu thẳm của sự mơ màng
những đỉnh cao của tuyệt đối và có một hình ảnh dữ dội về quả núi vô
biên. Đức Cha Biêngvơnuy chẳng phải là người như thế, ông không phải là
một thiên tài. Chừng như ông e sợ cái thứ cao siêu vì từ đó một đôi
người, có khi là những người vĩ đại, như Xuơđăngboóc và Pastcan, đã rơi
vào điên loạn. Nói cho đúng, những sự suy tưởng mãnh liệt ấy có giá trị
đạo đức và bằng những con đường gay go như thế người ta cũng đến gần sự
toàn thiện lý tưởng. Về phần Đức Cha Biêngvơnuy, ông đi theo con đường
nhỏ gần hơn: kinh thánh.

Ông không muốn cho áo lễ của
mình mang những nếp gấp trên áo khoác của Êli, ông không chiếu một tia
sáng tương lai nào lên cảnh nhấp nhô tối tăm của mọi biến cố, ông cũng
không tìm cách tập trung lửa trời của sự vật thành đuốc sáng, ông chẳng
có tí gì của nhà tiên tri và của nhà hướng đạo. Tâm hồn giản dị ấy yêu
thương, thế thôi.

Cho là ông có mở rộng sự cầu
nguyện đến một khát vọng siêu phàm, điều ấy có lẽ; nhưng người ta không
thể cầu nguyện nhiều quá cũng như không thể yêu thương nhiều quá. Và
nếu cầu nguyện quá lời kinh là tà tín thì nữ thánh Têredơ và thánh
Giêrôm đã là những người tà đạo rồi.

Ông nghiêng mình xuống những
ai rên rỉ và những ai đang chuộc tội. Thế gian hiện ra trước mặt ông
như một cõi bệnh tật bao la. Ở đâu cũng cảm thấy có cảm sốt, ở đâu ông
cũng chẩn đoán ra sự đau đớn và không tìm cách đoán biết bí ẩn, ông cố
gắng băng bó vết thương. Cảnh tượng đáng sợ của mọi vật trời sinh làm
cho lòng trìu mến của ông càng phát triển. Chỉ một điều làm ông bận là
cố tìm cho mình và gợi ý cho người khác cách tốt nhất để thương xót và
đỡ đần. Mọi cái tồn tại trên đời, đối với nhà tu hành hiền từ và hiếm có
này, là một duyên cớ thường xuyên để ông buồn và tìm cách an ủi.

Có những người cày cục khai
thác vàng; ông thì ông chuyên chú khai thác lòng thương. Nỗi khốn khổ
bao la của thế gian là hầm mỏ của ông. Bất kỳ ở đâu, đau khổ cũng chỉ là
cơ hội cho từ tâm. Các người hãy thương yêu nhau; ông cho lời nói ấy là
đầy đủ, cũng không mong ước gì hơn; và đó là tất cả học thuyết của ông.
Một hôm, cái người tự cho mình là “triết gia”, cái ông thượng nghị sĩ
ấy, mà trên kia đã nhắc đến, nói với ông giám mục: - “Nhưng xin ông nhìn
thử cảnh tượng của thế gian; ai cũng đánh nhau giết nhau; kẻ mạnh nhất
thì là kẻ tài trí nhất. Cái “các người hãy thương yêu nhau” của ông là một sự nhảm nhí.

- Thế thì – Đức ChaBiêngvơnuy đáp lại một cách ôn tồn – nếu đó là sự nhảm nhí, thì linh hồn cần náu mình trong đó như hạt ngọc trong con trai vậy.
Ông ẩn mình trong đó, sống
trong đó và lấy làm thỏa mãn hoàn toàn. Vì ông đã cẩn thận gạt qua một
bên những vấn đề to lớn vừa hấp dẫn vừa làm cho người ta hoảng hốt,
những chiều xa không tới nỗi của trừu tượng, những vực sâu của siêu hình
học, tất cả những vấn đề thăm thẳm qui vào một hướng và dẫn kẻ tông đồ
đến Chúa Trời cũng như dẫn kẻ vô thần đến hư vô. Đó là Vận mệnh con
người, thiện và ác, sinh vật sâu xé nhau, lương tâm con người, bản năng
trầm tư ở thú vật; vấn đề chết rồi đi đâu, nằm dưới mồ thì ôn lại kiếp
sống ra sao, bao nhiêu mối tình nối tiếp nhau tháo ghép một cách khó
hiểu bên cái tôi cố định; vấn đề cái tinh hoa và cái thể chất, sông Nin
và sông Ăngxơ, linh hồn và tạo vật, tự do và tất yếu. Toàn những vấn đề
chót vót, những tầng tầng đáng sợ; bao nhiêu thiên tài vĩ đại của trí
tuệ, con người đã vùi đầu vào đó. Toàn những vực sâu kinh khủng mà
Luycơrét, Manu, Thánh Pôn và Đăngtơ từng ngắm với con mắt nảy lửa; nhìn
đăm đăm vào cõi vô biên thì hình như lại làm nở ra ở đó những vì sao
sáng.

Đức Cha Biêngvơnuy chỉ đơn
giản là một con người nhìn các vấn đề bí ẩn từ bên ngoài chứ không soi
mói, không lay động tới, cũng không để cho tâm trí mình rối loạn, một
con người thâm tâm biết kính trọng bóng tối một cách tôn nghiêm.


Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:21 pm




QUYỂN II

SA NGÃ

I

SAU MỘT NGÀY ĐƯỜNG




Vào thượng tuần tháng mười năm 1815, một giờ trước lúc mặt trời lặn, có một người khách đi bộ vào thành phố Đinhơ
nhỏ bé. Dăm ba người hàng phố khi ấy còn đứng ngoài cửa sổ, hoặc ở
ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn người bộ hành, vẻ nghi ngại. Khó mà thấy một
người đi đường tồi tàn hơn thế! Hắn ta khoảng trên bốn mươi lăm tuổi,
người tầm thước, to ngang và vạm vỡ trông đương sung sức. Chiếc mũ
cát-két có lưỡi trai bằng da sụp xuống trán che khuất một phần khuôn mặt
nhễ nhại mồ hôi. Chiếc sơ-mi vải thô màu vàng, cổ cài mỏ neo bạc, để
lòi ra một cái ngực đầy lông. Chiếc cà-vạt vặn lại như mẩu thừng. Cái
quần bằng vải to màu xanh đã cũ nát, một bên gối bạc phếch và một bên bị
thủng. Cái áo khoác cũ màu xám, rách mướp một bên khủyu tay và một
miếng da xanh khâu bằng dây gai. Trên lưng một chiếc ba lô quân đội còn
mới nguyên đầy ắp và buộc kỹ lưỡng. Tay cầm chiếc gậy gộc có đốt, chân
không tất đi một đôi giày đinh. Đầu húi trọc, râu để dài.


Con người đã tồi tàn như thế lại cuốc bộ ngoài nắng mồ hôi mồ kê ướt đẫm, bụi bặm đầy mình, nên càng thêm vẻ ghê tởm.

Đầu thì húi trọc, nhưng tóc lổm chổm vì mới mọc mà hình như gần đây không được húi.

Chẳng
ai biết rõ hắn ta. Cố nhiên hắn chỉ là một kẻ qua đường. Nhưng hắn ở
đâu tới? Từ miền Nam. Có lẽ là từ miền bể. Vì hắn vào thành phố
Đinhơ cũng bằng con đường mà bảy tháng trước đây Hoàng đế Napoleon
đã đi qua khi từ Can đến Paris. Chắc hắn đã cuốc bộ suốt ngày nên coi
vẻ mệt mỏi lắm. Mấy người đàn bà ở phố cũ phía Nam đã thấy hắn nghỉ lại
dưới rặng cây ở đường Gátxăngđi và vục nước máy ở đầu đường mà uống. Hẳn
là hắn khát lắm, vì lũ trẻ con đi theo thấy hắn dừng lại cách đấy hai
trăm bước, ở máy nước sân chợ và uống nữa.


Đến
góc phố Poasơve hắn rẽ sang trái và tiến về phía thị sảnh. Hắn vào và
mười lăm phút sau lại ra. Một người lính sen đầm ngồi trên tấm ghế để
cạnh cửa ra vào, chiếc ghế mà hôm mùng bốn tháng ba tướng Đôruô đã trèo
lên và đọc cho quần chúng nhân dân thành
Đinhơ đang kinh hoàng tờ tuyên ngôn của Napoleon
làm ở vịnh Gioăng. Hắn bỏ mũ khúm núm cúi chào. Người lính không chào
lại, chăm chú nhìn hắn, trông theo hắn một lúc rồi bỏ đi vào trong công
quán.


Ngày ấy ở Đinhơ có một hàng cơm lịch sự là hiệu Croa đờ Cônba. Chủ quán, Giacanh Laba cũng là một tay được vị nể trong thành phố vì y có họ với một anh Laba khác, anh này là chủ hàng cơm Troa Đôphanh
Grơnốp và đã từng phục vụ trong đội quân hướng đạo. Dạo hoàng đế đổ bộ
lên đất liền, trong xứ người ta đồn nhiều điều về hàng cơm Troa Đôphanh này lắm. Có người kể rằng tướng Béctrăng,
(Bertrand:
tướng phụ tá của Napoleon, rất trung thành, đã theo Napoleon trong bước
suy vong cho đến lúc cuối cùng và đã mang di cốt của vua mình về nước
Pháp)
cải
trang làm phu xe bò, vào tháng giêng năm ấy, thường hay đi lại trong
vùng và phân phát nhiều huân chương cho lính tráng và từng vốc bạc cho
bọn thị dân. Sự thật là khi
Napoleon vào Grơnốp, ngài đã từ chối không đến ngự ở thị sảnh. Ngài cám ơn ông thị trưởng và nói: “Tôi đến nhà một người tốt mà tôi quen biết”, rồi đi đến quán cơm Troa Đôphanh. Cái vinh dự của anh Laba ở hàng cơm Troa Đôphanh chiếu xa ngoài hai mươi dặm đến tận cái anh Laba ở quán cơm Croa đờ Cônba. Hàng phố người ta thường chỉ trỏ: “Ấy, ông này là em họ của ông Laba ở Grơnốp đó”.


Anh
chàng đi về phía hàng cơm ấy là nơi chứa trọ tốt nhất miền. Hắn bước
thẳng vào bếp ngay cạnh đường. Tất cả các hỏa lò đang đỏ rừng rực; trong
lò sưởi củi cháy ngùn ngụt. Chủ quán vừa là đầu bếp, hết thổi lửa lại
xem các xoong chảo, đang tíu tít sửa soạn bữa cơm ngon cho bọn phu xe
tải hàng đang cười nói ầm ĩ ở buồng bên. Ai đã từng đi nhiều đều biết
rằng chẳng có khách hàng nào háu ăn ngon bằng đám phu xe tải. Một chiếc
xiên dài có con cu li béo, hai bên kèm một dây gà gô và gà rừng, đang
quay trên lò lửa. Trong nồi hai con chép lớn hồ Lôze và một con cá quả
hồ Alôzơ đang âm ỉ.


Nghe cửa mở và có khách mới vào, chủ quán mắt không rời bếp, hỏi:

- Ông cần gì?

- Ông cho ăn cơm và ngủ lại.

- Vâng, dễ thôi – Bấy giờ chủ quán mới quay ra, nhìn người khách từ đầu đến chân một lượt rồi thêm:

- Chỉ cần trả tiền.

Khách thò tay vào túi áo khoác lấy ra một chiếc ví da to:

- Tiền đây.

- Thế thì xin có.

Khách
bỏ ví da vào túi, bỏ chiếc ba lô ra, đặt xuống đất gần bên cửa rồi xách
gậy đến ngồi trên chiếc ghế đẩu gần lò sưởi. Thành phố
Đinhơ ở miền núi, đêm tháng mười thường lạnh.


Trong khi ấy, chủ quán vừa đi đi lại lại vừa ngắm kỹ khách.

- Đã sắp có cơm chưa? – Khách hỏi.

- Lát nữa.

Trong
khi khách ngồi sưởi, quay lưng lại thì viên chủ quán Laba móc túi lấy
cây bút chì, xé một tờ báo cũ trên chiếc bàn con cạnh cửa sổ, viết một
vài dòng gì đó vào chỗ mép trắng rồi gấp lại đưa cho một chú bé, chừng
vừa là phụ bếp vừa là người đánh xe. Chú quán ghé vào tai thằng bé nói
thầm một câu, thằng bé liền cắm đầu chạy về phía thị sảnh.


Khách không hay biết gì cả, lại hỏi:

- Đã gần có cơm chưa?

- Một lát nữa.

Thằng
bé cầm mảnh giấy trở về. Chủ quán đang nóng chờ câu trả lời, vội vàng
mở ra xem. Hắn ra vẻ chăm chú đọc, rồi lắc đầu suy nghĩ một lúc. Rồi hắn
bước lại gần người khách đang trầm ngâm, ra dáng lo lắng, âu sầu:


- Này ông, tôi không tiếp ông được.

Khách giật mình nhổm lên:

- Sao vậy? Anh sợ tôi không có tiền trả à? Hay là tôi đưa trước cho anh nhé? Tôi đã nói tôi có tiền mà.

- Không phải thế.

- Thế thì tại làm sao?

- Ông có tiền…

- Phải.

- Nhưng tôi thì tôi không có phòng.

Khách ôn tồn bảo:

- Cho tôi xuống chuồng ngựa vậy.

- Không được.

- Sao thế?

- Chuồng ngựa đầy ngựa rồi.

- Thôi thì một xó trên gác xép cũng được. Một ổ rơm là đủ mà. Ăn xong rồi ta sẽ hay.

- Tôi không thể dọn cơm cho ông ăn được.

Câu trả lời khoan thai, nhưng cứng cỏi, làm cho khách biết có gì nghiêm trọng đây. Khách đứng dậy:

- Thế à! Nhưng tôi đói lả rồi đây này. Cuốc bộ những mười hai dặm từ sáng sớm đến giờ. Tôi có quịt đâu, tôi cần ăn mà.

- Trong nhà chả còn thức gì cả?
Khách phì cười, quay sang phía lò sưởi và chỗ bếp:


- Không còn gì! Thế những cái kia?


- Đấy là của người ta đặt trước.


- Ai đặt?


- Các ông phu xe tải hàng đây.


- Họ có bao nhiêu người?


- Mười hai.


- Đến hai mươi ăn cũng đủ nữa là.


- Nhưng họ đã giữ hết và trả tiền trước cả rồi.


Khách lại ngồi xuống, ôn tồn:


- Đây là hàng cơm, tôi đói, tôi cứ ở lại.


Chủ quán bèn ghé vào tai khách, nói bằng một giọng làm cho khách phải giật mình:


- Đi ngay đi.


Lúc
ấy khách đang cúi xuống, lấy đầu gậy bịt sắt vun mấy cục than hồng
trong lò lửa, bỗng quay ngoắt lại. Khách vừa mở miệng định trả lời thì
chủ quán nhìn chằm chằm vào mặt, vẫn thấp giọng nói tiếp:



-
Này, đừng nhiều lời nữa. Anh có muốn tôi nói tên anh ra không? Anh là
Giăng VanGiăng. Anh còn muốn tôi lôi lý lịch anh ra ư? Lúc anh thoạt
vào, tôi đã hơi ngờ ngờ, tôi sai người ra hỏi ngoài thị sảnh, thì người
ta đã trả lời rồi đấy. Anh có đọc được không?



Chủ
quán vừa nói vừa đưa cho khách xem mảnh giấy mở sẵn vừa mới từ hàng cơm
đưa ra thị sảnh và từ thị sảnh trở về hàng cơm. Khách đưa mắt nhìn qua.
Chủ quán đứng lặng một lát rồi bảo:



- Tôi đây vẫn quen đối xử nhã nhặn với mọi người. Mời anh đi cho.


Khách cúi đầu, nhặt chiếc ba lô để dưới đất rồi bước ra.


Hắn
cứ dọc theo đường phố lớn đi thẳng một mạch về phía trước, chẳng biết
mình định đi đâu, men sát theo các tường nhà, như người bị sỉ nhục và
buồn rầu. Ở cửa hàng cơm, anh chủ quán, có bọn khách trọ và người qua
đường vây quanh, đang đứng trông theo và chỉ trỏ, nói năng huyên thuyên.
Người kia không hề ngoái cổ. Giá hắn ngoái cổ trông lại thì cứ vẻ mặt
nghi ngờ và kinh hãi của cả đám người ấy, có lẽ hắn đoán biết rồi đây
chả mấy chốc cả thành phố sẽ nhốn nháo lên vì hắn.



Hắn
không nhìn thấy gì về cảnh ấy cả. Người đang đau khổ có quay nhìn lại
sau lưng bao giờ! Họ biết thừa vận đen vẫn theo đuổi họ.



Hắn
cắm đầu đi như thế trong hồi lâu, lang thang hết phố này sang phố khác,
chẳng biết đâu là đâu, quên cả mệt nhọc, như một người đang cơn buồn
bực. Bỗng nhiên hắn thấy bụng đói cồn cào. Trời lại sắp tối. Hắn đưa mắt
nhìn quanh xem may chăng có nơi nào trọ được.



Hàng quán lịch sự thì đã cấm cửa hắn rồi; hắn định tìm một quán rượu nào thật tồi tàn, thật xơ xác.


Vừa lúc ấy, một ánh lửa lóe lên ở đầu phố; một cành thông treo lủng lẳng trên cái cần sắt (đó là dấu hiệu một quán trọ)in rõ trên nền trời hoàng hôn màu trăng trắng. Hắn nhắm hướng đó đi tới.


Thì ra là một quán rượu, quán rượu phố Sapphô.


Hắn
dừng lại một lúc, đưa mắt nhìn vào bên trong qua cửa kính. Căn phòng
thấp của ngôi hàng đang có chiếc đèn con trên bàn và lửa cháy rần rật
trong lò sưởi chiếu sáng. Vài ba người đang uống rượu. Chủ quán ngồi
sưởi. Một chiếc nồi sắt treo trên lò lửa sôi sùng sục.



Quán
rượu này đồng thời là quán cơm. Vào ra có hai cửa, một cửa trông ra
đường cái, một cửa thông ra cái sân con đầy ắp phân tro.



Hắn không dám vào cửa trước. Hắn lẻn vào trong sân, tần ngần một lúc rồi khe khẽ nâng then lên, đẩy cánh cửa. Chủ quán hỏi:


- Ai đấy?


- Một người muốn ăn cơm và nghỉ trọ.


- Được. Ở đây có chỗ ăn và chỗ ngủ.


Hắn
bước vào. Bọn khách đang đánh chén quay cả lại. Hắn đứng giữa, một bên
có ánh đèn chiếu sáng, một bên có ánh lửa. Trong khi hắn loay hoay bỏ
chiếc ba lô trên vai xuống thì mọi người đều nhìn hắn chăm chú.



Chủ quán bảo:


- Lò sưởi đây, bữa tối trong nồi kia. Anh bạn lại mà sưởi cho ấm.


Hắn
đến ngồi sát bên lò sưởi, duỗi thẳng đôi chân đi bộ đau dừ ra trước
đống lửa. Trong nồi mùi thức ăn bay ra thơm phức. Trên khuôn mặt khuất
sau chiếc mũ lưỡi trai đội thụp xuống, phảng phất một vẻ gì khoan khoái
lẫn trong cái dáng đau thương của con người từng quen khổ nhục.



Thực
ra, nhìn một bên, nét mặt hắn rắn rỏi, cương quyết và rầu rầu. Kể ra
cũng phức tạp: thoạt trông thì hình như khúm núm, nhìn kỹ lại như nghiêm
nghị. Hai con mắt sáng quắt dưới bộ lông mày, trông chẳng khác gì ánh
lửa dưới bụi rậm.



Trong
bọn khách đang ngồi ở quán có một anh hàng cá, trước khi đến quán này
đã qua nhà hàng Laba để gửi ngựa. Tình cờ xui khiến y gặp người lạ mặt
khả nghi này lúc ban sáng đang thất thểu ở quãng đường từ Bradat đến…
(tôi quên mất tên chỗ này, hình như là Etcublông thì phải). Chả là khi
gặp y, người bộ hành đã có vẻ mệt nhọc lắm rồi, có xin y cho ngồi nhờ
sau yên ngựa: y chẳng nói chẳng rằng cứ ra roi thúc ngựa. Nửa giờ trước
đây, y lại có mặt trong đám đông, vây quanh Giacanh Laba và chính miệng y
đã thuật lại việc gặp gỡ bực mình ban sáng cho mọi người ở cửa hàng Croa đờ Cônba
nghe. Y ngồi yên tại chỗ, ra hiệu ngầm cho chủ quán. Chủ quán ghé lại
gần, hai người thì thầm với nhau một vài lời. Người khách lạ đang thừ
người ra nghĩ ngợi.



Chủ quán trở lại chỗ lò sưởi, đột ngột đặt bàn tay lên vai hắn, bảo:


- Mày đi ngay ra khỏi nhà này.


Hắn quay lại nhẹ nhàng đáp:


- À! Hóa ra anh cũng biết ư?


- Phải.


- Bên nhà hàng kia không tiếp tôi.


- Và nhà hàng này thì đuổi mày đi.


- Ông bảo tôi đi đâu bây giờ?


- Đi chỗ khác.


Người lạ mặt cúi nhặt chiếc gậy và xách ba lô đi. Mấy đứa trẻ con đi theo hắn từ nhà hàng Croa đờ Cônba
vẫn đứng chờ ở ngoài, thấy hắn bước ra thì nhặt đá ném theo. Hắn nổi
giận quay trở lại, giơ chiếc gậy ra dọa, lũ trẻ mới chịu chạy tản ra như
một bầy chim.



Hắn
đi qua nhà lao. Cổng nhà lao có treo một sợi xích buộc vào một cái
chuông. Hắn nắm dây giật. Một cửa con mở ra. Hắn bỏ mũ kính cẩn:



- Ông gác ơi! Ông làm ơn mở cửa cho tôi và cho tôi trọ đỡ đêm nay.


Có tiếng trả lời:


- Nhà pha không phải là quán trọ. Anh cứ làm cho người ta bắt giam anh đi. Tôi sẽ mở cửa cho.


Cửa con đóng lại.


Hắn
rẽ sang một phố nhỏ có nhiều khu vườn. Có nơi bên ngoài chỉ có hàng rào
cây trông cũng vui mắt. Giữa quãng vườn tược, rào giậu ấy, hắn nhìn
thấy một ngôi nhà nhỏ một tầng, gác có ánh sáng chiếu lọt qua cửa sổ.
Hắn lại dòm qua cửa kính như lúc đứng trước quán rượu ban nãy. Bên trong
là một căn phòng rộng quét vôi trắng, một chiếc giường có trải nệm bọc
vải hoa, một chiếc nôi trẻ con ở góc nhà, mấy cái ghế gỗ và khẩu súng
săn hai nòng treo trên tường. Giữa phòng, bàn ăn đã bày sẵn. Ánh sáng
cây đèn đồng tỏa lên tấm khăn bàn vải thô màu trắng, chiếu lên cái bình
thiếc lấp loáng như bạc đựng đầy rượu và liễn xúp màu nâu khói lên nghi
ngút. Bên bàn, một người đàn ông trạc độ bốn mươi, nét mặt tươi vui,
đang đùa với đứa con nhỏ nhún nhảy trên đùi mình. Bên cạnh người vợ trẻ
măng vạch áo cho một đứa trẻ khác bú. Anh chồng cười, đứa con cười, chị
vợ mỉm cười.
Người
lạ mặt mơ màng ngắm cảnh gia đình đầm ấm ấy một lúc lâu. Hắn đang nghĩ
ngợi gì vậy? Riêng chỉ có hắn biết được mà thôi. Có lẽ hắn cho rằng gia
đình vui vẻ này hẳn là hiếu khách và ở một nơi tràn đầy hạnh phúc như
thế hẳn sẽ tìm được một chút tình thương chăng.



Hắn gõ khẽ vào cửa kính.


Không ai nghe tiếng.


Hắn gõ lần nữa.


Có tiếng người vợ bảo chồng:


- Này mình, hình như có ai gọi cửa.


Chồng đáp:


- Đâu có.


Hắn lại gõ lần thứ ba.


Người chồng đứng dậy, cầm đèn ra mở cửa.


Chủ
nhà người cao lớn, nửa ra vẻ nông dân, nửa ra vẻ thợ thủ công. Anh
khoác một chiếc tạp dề rộng bằng da, bên trái che lên đến ngang vai.
Phần trên tạp dề bỏ đồ đạc cộm lên như một cái túi, có chiếc nịt da ở
lưng giữ lại: một cái búa, một chiếc khăn tay đỏ, một bao thuốc súng và
đủ thứ linh tinh nằm trong đó. Anh nghiêng đầu ra phía sau, chiếc sơ mi
cổ rộng trễ xuống để lộ ra cái cổ trần, lực lưỡng và trắng nõn. Anh có
đôi lông mày rậm, bộ râu quai nón đen nhánh, cặp mắt lồi, cái cằm nhọn,
vẩu và trên tất cả cái dáng thoải mái của con người đang ở nhà mình, một
dáng điệu rất khó tả.



-
Thưa ông, xin lỗi ông. Ông có thể cho tôi một đĩa xúp nhỏ và một xó
trong nhà xe ở ngoài vườn kia để ngủ qua đêm nay không? Tôi xin gửi tiền
hầu ông. Thưa ông, có được không? Tôi xin trả tiền ông.



Chủ nhà hỏi:


- Anh là ai.


-
Tôi ở Puy Moaxông đến đây. Tôi đi bộ suốt từ sáng đến giờ, kéo bộ hàng
mười hai dặm đường. Thưa ông, có được không? Tôi xin trả tiền mà.



-
Người lương thiện xin trọ mà lại trả tiền khá thì việc gì mà từ chối? –
người nông dân đáp – Nhưng sao anh lại không vào nhà hàng?



- Nhà hàng không còn chỗ.


- Không còn chỗ? Có nào. Hôm nay có phiên chợ chính hay phiên chợ xép gì đâu. Thế anh đã vào Laba chưa?


- Đã.


- Thế sao?


Người lạ mặt lúng túng:


- Không biết tại sao, họ không chịu tiếp tôi.


- Anh đã lại nhà hàng anh gì ở phố Sapphô chưa?


Người lạ mặt lại càng thêm lúng túng. Hắn ngập ngừng:


- Ở đấy họ cũng không tiếp.


Chủ nhà sinh nghi, nhìn người lạ mặt từ đầu đến chân, rồi bất thần kêu lên, giọng như ríu:


- Dễ thường anh là cái người mà…


Anh đưa mắt nhìn người lạ mặt lần nữa, rồi lùi lại ba bước, đặt cây đèn xuống bàn, với tay lấy khẩu súng trên tường.


Nghe tiếng chồng kêu: “Dễ thường anh là cái người mà…” chị
vợ vội đứng dậy, ôm lấy hai con chạy đến nấp sau lưng chồng, không kịp
kéo áo che ngực, cặp mắt hốt hoảng, nhìn về phía người lạ mặt, miệng lẩm
bẩm:



- Quân cướp đạo.


Bấy
nhiêu việc hình dung ra thì dài song chỉ xảy ra trong chốc lát. Chủ nhà
dò xét người lạ mặt một lúc như người ta quan sát một con rắn lục, rồi
trỏ ra phía cửa bảo:



- Cút đi.


- Van ông, xin một cốc nước.


- Có họa một phát súng!


Nói
xong, anh đóng sập cửa lại. Người lạ mặt nghe rõ anh ta kéo cả hai cái
then lớn cài cửa. Một lát sau, cửa sổ cũng đóng nốt và có tiếng gióng
sắt chặn cửa vang ra ngoài.



Trời
mỗi lúc một thêm tối. Gió núi thổi về lạnh buốt. Trong ánh sáng lờ mờ
của ngày tàn, người lạ mặt thấy trong một khu vườn ở gần đường có cái gì
giống một cái lều đắp bằng đất cỏ. Hắn quả quyết trèo qua hàng rào gỗ
đi vào trong vườn. Đến gần thì thấy lều chỉ có một lỗ nhỏ ra vào ở sát
đất, trông giống túp lều của phu lục lộ thường dựng dọc đường cái. Thôi
đích là cái lều của phu lục lộ, có lẽ hắn nghĩ thế. Bấy giờ hắn vừa đói
lại vừa rét; đói thì hắn đành ôm bụng chịu vậy, nhưng rét thì ít nhất
cũng tạm ẩn vào đây được, vì lều của phu lục lộ thì ban đêm thường bỏ
không. Hắn bèn nằm sấp xuống chui vào. Trong lều ấm lắm, lại có cả ổ rơm
khá êm. Hắn nằm duỗi dài trên ổ, mệt quá không cựa quậy nổi. Một chốc
sau thấy cái ba lô ở sau lưng vướng víu khó chịu, hắn nghĩ nếu đem kê
làm gối thì hay quá nên với tay cởi dây đeo. Bỗng có tiếng gầm gừ dữ tợn
vang lên. Hắn nhìn ra thì thấy đầu một con chó kếch xù hiện ra trong
bóng tối ngay chỗ lỗ ra vào.



Thì ra đó là cái ổ chó.


Hắn
vốn lực lưỡng và là một tay không vừa. Hắn vớ lấy cây gậy, giơ ba lô
lên làm cái khiên, rồi cố lách ra khỏi chuồng, mặc cho quần áo bị tươm
nát thêm. Hắn cũng luồn ra khỏi vườn, nhưng vừa lùi vừa hoa gậy theo thế
võ mà bọn nhà nghề mệnh danh là thế che hoa để dọa con chó.



Khi
chật vật lắm mới vượt được hàng rào gỗ ra ngoài đến đường cái, hắn lại
càng thấy mình trơ vơ không nhà, không cửa, không nơi nương tựa, thậm
chí chui vào cái ổ chó khốn nạn nằm lên rơm của chó, mà cũng bị chó đuổi
ra. Hắn ngồi phịch xuống một hòn đá. Hình như lúc ấy có người đi qua
nghe thấy hắn than thở:



- Thân ta thật không bằng một con chó!


Một lát sau hắn lại đứng dậy bước đi. Hắn đi ra khỏi thành phố, hy vọng tìm được gốc cây hay đống rạ ngoài đồng trú tạm.


Hắn
cắm đầu đi một lúc lâu. Khi đã thấy xa nơi nhà cửa có người ở rồi, hắn
mới ngước mắt nhìn quanh một lượt. Thì ra hắn đang ở giữa cánh đồng.
Trước mắt là một quả đồi thấp gặt xong, còn trơ gốc rạ trông như cái đầu
húi trọc.



Chân
trời tối mịt. Đêm đã đến. Lại thêm những đám mây rất thấp, trông như
tựa trên đỉnh đồi và đang lan ra, tỏa dần khắp trời. Trăng sắp mọc,
ngang trời cũng còn mơ hồ chút ánh sáng thừa của hoàng hôn, nên từ các
vòm mây, ánh sáng heo hắt ấy lại tỏa xuống cánh đồng.



Mặt
đất thành ra trông rõ hơn nền trời và cái đó gây ra một cảnh tượng ghê
rợn. Quả đồi trơ trọi mảnh mai in hình mờ nhạt lên chân trời tối sầm
trước mặt. Dưới ruộng, trên đồi không còn cái gì khác ngoài một thân cây
hình dáng kỳ dị đang quằn quại run rẩy ở ngay gần người rảo bước.



Cố
nhiên hắn không phải là một con người thông minh, tế nhị, quen cảm xúc
trước những vẻ bí ẩn cuả tạo vật, nhưng trong cảnh trời, cảnh đồi, cảnh
đồng ruộng, cả hình dáng gốc cây ấy lúc bấy giờ đều như có cái gì tiêu
điều vô hạn, khiến hắn phải lặng người đi, mơ màng một lúc rôi bỗng quay
gót trở lại. Lắm khi thiên nhiên cũng có vẻ thù ghét con người là thế.
Hắn qauy lùi về đường cũ. Bấy giờ cổng thành đã đóng.
Đinhơ
trước kia, hồi chiến tranh tôn giáo đến nhiều lần đương đầu với nhiều
cuộc bao vây, nên đến năm 1815 hãy còn giữ những tường lũy cũ, với các
lô cốt vuông đã bị phá từ dạo ấy. Hắn trèo qua chỗ tường đổ trở vào
trong phố.



Lúc
ấy vào khoảng tám giờ tối. Đường sá không thuộc nên hắn lại vẫn lang
thang như trước. Đi mãi đến dinh tỉnh trưởng rồi đến chủng viện. Khi qua
quảng trường nhà thờ lớn, hắn hằn học giơ quả đấm lên nhà thờ.




góc quảng trường có một nhà in. Đây là nơi in đầu tiên các bản tuyên cáo
của hoàng đế và của quân ngự lâm gửi cho quân đội. Các bản tuyên cáo
này từ đảo Enbơ mang về do đích thân
Napoleon đọc cho người ta chép.



Cuối cùng thấy trong người rã rời, lại hết phương mong mỏi, hắn đến nằm lăn trên chiếc ghế đá trước cửa nhà in.


Một bà già từ trong nhà thờ đi ra, thấy hắn nằm trong bóng tối, cất tiếng hỏi:


- Ông bạn kia làm gì ở đây?


Hắn nổi xung gắt:


- Phúc đức chưa! Bà không thấy à? Nằm ngủ chứ còn làm gì nữa!


Bà già là hầu tước phu nhân R, vốn là người phúc đức thật. Bà tiếp:


- Nằm trên ghế đá này à?


- Mười chín năm nằm đệm gỗ, nay nằm nệm đá cũng được chứ sao?


- Trước anh đi lính à?


- Phải, đi lính.


- Sao lại không vào quán trọ?


- Tôi không có tiền.


- Rủi quá – bà R. nói – tôi chỉ còn bốn xu trong ví!


- Không hề gì, cứ cho tôi.


Hắn cầm tiền. Bà R, lại bảo:


-
Bấy nhiêu cũng không đủ trả tiền trọ đâu. Nhưng anh đã hỏi thử chỗ nào
chưa? Chứ nằm cả đêm trên ghế này thế nào được! Chắc anh đang đói và
rét. Người ta cũng có thể làm phúc cho anh ngủ nhờ chứ?



- Tôi đã gõ hết cửa mọi nhà rồi.


- Thế sao?


- Đâu họ cũng đuổi.


Bà già phúc đức, chạm tay người lạ mặt, chỉ cho hắn ngôi nhà thấp nhỏ ở bên kia quảng trường, cạnh dinh giám mục:


- Anh bảo anh gõ cửa khắp các nhà rồi phải không?


- Phải.


- Vậy anh đã gõ cửa nhà kia chưa?


- Chưa.


- Đến gõ đấy xem.


II



KHUYÊN NGƯỜI HIỀN PHẢI ĐỀ PHÒNG




Tối hôm ấy, ông giám mục thành Đinhơ đi dạo phố về lại ngồi làm việc trong phòng mãi. Ông lo soạn một bộ sách về Những bổn phận. Công việc còn đang dở dang.

Ông
nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả những gì mà các Cha cố và các Nhà thông thái
đã nói về vấn đề trọng đại này. Cuốn sách gồm hai phần: phần thứ nhất
nói về bổn phận mọi người, phần thứ hai về bổn phận cá nhân, tùy theo
hoàn cảnh từng tầng lớp. Bổn phận mọi người là quan trọng nhất. Có bốn
cái mà Thánh Mathiơ đã chỉ rõ: Bổn phận đối với Chúa (Matth, VI), bổn phận đối với bản thân (Matth, V, 29, 30), bổn phận đối với đồng loại (Matth, VII, 12), bổn phận đối với sinh linh (Matth, VI, 20,25). Về các bổn phận khác, ông cũng đã thấy rõ có nơ
i
vạch ra và khuyên làm: các nhà vua và các bề tôi thì trong khuyến thư
cho người La Mã; các quan tòa, của kẻ làm vợ, làm mẹ, của thanh niên thì
trong lời thánh Pi-e; của người làm chồng, làm cha, làm con, làm gia
nhân cho kẻ khác thì trong Khuyến thư cho dân Ephe; của người đi đạo thì
trong Khuyến thư cho người Ebơrơ; của trinh nữ, trong Khuyến thư cho
dân Côranhtơ. Ông cẩn thận đem tất cả những lời khuyên kia sắp xếp thành
một bài luân lý cân đối hài hòa để: trình bày cho mọi người.


Tám
giờ rồi ông vẫn còn ngồi lom khom viết vào những mẩu giấy vuông nhỏ,
trên đùi đặt một cuốn sách to. Như thường lệ, mụ Magơloa bước vào lấy bộ
đồ bạc trong ô tủ gần đầu giường. Một lúc sau, đoán chừng bữa ăn đã dọn
xong và cô em có lẽ đang đợi, ông gấp sách đứng lên bước sang phòng ăn.


Phòng ăn là một căn buồng hình bầu dục có lò sưởi, cửa chính quay ra đường (như trên đã tả) và cửa sổ trông ra vườn.

Bữa ăn vừa dọn xong, bà Magơloa vừa bày bàn vừa nói chuyện với cô Baptistin.

Cây đèn để trên bàn; bàn lại kê bên lò sưởi. Trong lò củi cháy khá đượm.

Người
ta có thể dễ dàng hình dung được hai bà phụ nữ, bà nào tuổi cũng ngoại
sáu mươi. Bà Magơloa thì thấp người, đẫy đà, lanh lẹ; cô Baptistin thì
dịu dàng, dáng gầy và lêu khêu, so với ông anh có cao hơn một tí; cái áo
lụa bà mặc màu nâu thẫm, bà giữ mãi đến bây giờ là sắm ở Paris từ hồi
1806, lúc ấy màu đó rất được mọi người hâm chuộng. Nếu mượn cách nói
thông tục, nó có cái hay là một chữ có thể diễn đạt được một ý mà có khi
cả một trang văn chương cũng chưa chắc đã nói đầy đủ bằng, thì bà
Magơloa có vẻ là một bà nhà quê, còn cô Baptistin thì ra dáng một phu nhân.
Bà Magơloa thì trên đầu đội cái mũ vải trắng, chung quanh cuộn tròn
thành ống, cổ đeo một cây thánh giá nhỏ bằng vàng, thứ nữ trang duy nhất
trong nhà. Cái khăn quàng của bà thật trắng lòi ra ngoài cái áo dài
đen, tay ngắn và rộng, bằng len thô. Cái tạp dề bằng vải kẻ ô xanh đỏ,
buộc ngang h
ông
bằng các dải màu lục. Trước bụng thêm miếng vải gấp ngược lên thành túi
cài hai kim băng ở hai góc trên. Chân đi giày rộng với bít tất vàng như
phụ nữ Macxây. Chiếc áo dài của cô Baptistin cắt theo mẫu 1806, cở
ngắn, thân hẹp, tay bồng, có dải buộc và đính cúc. Mớ tóc lốm đốm bạc,
bà thu vào trong một bộ tóc giả uốn theo kiểu thiếu niên.
Magơloa có vẻ thông minh, lanh lợi, tốt bụng; hai khóe miệng không cân
nhau; môi trên dày hơn môi dưới, trông ở bà có cái gì cộc cằn và độc
đoán. Ông giám mục mà còn làm thinh thì bà nói năng mạnh dạn với thái độ
vừa kính nể và tự do; nhưng hễ Đức Cha lên tiếng, thì, điều này mọi
người đã biết, bà phục tòng ngoan ngoãn cũng như cô Baptistin vậy. Cô
này thì lại như không nói năng gì. Cô chỉ vâng lời và làm theo cho ông
anh vui lòng. Ngay hồi còn trẻ, người cô cũng không xinh, đôi mắt to
xanh, hơi lồi, sống mũi dài và gù; có điều khuôn mặt cũng như cả con
người, như chúng tôi đã nói ở đầu sách này, đều toát lên một vẻ hiền từ
vô hạn. Cô vốn sinh ra để làm con người hiền đức; nhưng đức tin, tình
bác ái, lòng hy vọng, ba đức ấy lại nhẹ nhàng sưởi ấm tâm hồn làm cho
trái tim hiền đức kia lại dần dần nâng lên thành thánh đức. Tạo vật chỉ
đúc cô làm một con cừu, tôn giáo đã biến cô thành một thiên thần. Tộ
i nghiệp người con gái thánh đức! Một hình ảnh êm dịu đã mất!


Không
biết bao nhiêu lần cô Baptistin đã kể lại việc xảy ra trong dinh giám
mục buổi tối hôm ấy, cho nên nhiều người hiện nay còn sống hãy còn nhớ
rõ các chi tiết.


Khi
ông giám mục bước vào, bà Magơloa đang chuyện trò có vẻ hăng lắm. Bà
nói với cô Baptistin câu chuyện bà đã thuộc lòng và ông giám mục nghe
cũng đã quen tai, câu chuyện cái then chỗ cửa ra vào.


Nghe
đâu lúc chiều đi mua thức ăn, bà đã nghe thấy chỗ nào cũng xì xào nhiều
chuyện lắm. Nào chuyện có một tên trộm hình dạng kỳ dị, một tên du đãng
khả nghi vừa xuất hiện, đang còn lẩn lút trong các phố, đêm nay ai mà
về khuya chắc sẽ gặp những chuyện chẳng lành. Nào chuyện tuần phòng bị
bỏ bê, lơ là vì ông tỉnh trưởng và ông thị trưởng không ưa nhau, cố tìm
cách làm xảy ra việc nọ việc kia để hại nhau. Ai khôn hồn thì tự liệu mà
giữ lấy thân, giữ lấy của, nhà cửa phải liệu mà rào trước chặn sau, đóng then cài chốt cho thật kỹ.



cố ý nhấn mạnh mấy tiếng sau cùng. Song ông giám mục vừa ở phòng bên
sang, đang rét, nên đến thẳng chỗ lò sưởi ngồi sưởi rồi nghĩ vơ vẩn đến
chuyện khác. Ông không có hưởng ứng gì về câu nói bóng gió của bà, khiến
bà ta phải lặp lại. Cô Baptistin muốn chiều ý bà mà không làm phiền ông
anh, nên đánh bạo hỏi khẽ:


- Thưa anh, anh có nghe bà Magơloa vừa nói gì đó không?

Ông giám mục đáp:

- Có, tôi có nghe loáng thoáng.

Ông quay ghế lại, để hai tay lên đầu gối, ngẩng nhìn bà ở già. Ánh lửa từ dưới chiếu lên khuôn mặt dịu dàng và vui vẻ:

- Nào, có chuyện gì thế? Đang có chuyện gì nguy hiểm lắm phải không?


Magơloa lại kể lại đầu đuôi câu chuyện và vô tình thêm thắt ít nhiều.
Nào là có một tên cầu bơ cầu bất, một thằng khố dây, một tên ăn xin nguy
hiểm, nó đã lọt vào trong tỉnh. Nào nó đến xin trọ ở nhà hàng Laba
nhưng người ta không chứa. Nào lúc nhá nhem tối người còn thấy nó ở đại
lộ Cátxăngđi đang rình mò trong các phố. Một tên đầu trộm đuôi cướp mặt
mày dễ sợ lắm.


Ông giám mục nói:

- Thật ư?

Thấy ông giám mục đã chịu khó hỏi han, bà phấn khởi đoán chừng câu chuyện đã làm ông hơi lo, nên đắc thắng nói tiếp:

-
Vâng, thưa Đức Cha, đúng thế. Đêm nay trong tỉnh thế nào cũng có chuyện
chẳng lành. Ai cũng bảo thế cả. Đã vậy, việc tuần phòng lại lơ là thế
nào ấy (câu nhắc cần thiết)! Ai lại ở xứ rừng núi thế này mà đêm hôm phố
xá chẳng có đèn đóm gì cả! Bước ra khỏi nhà thì cứ như là chui vào hũ
nút. Thưa Đức Cha, có cô Baptistin đấy, cô cũng đồng ý với con là...


Cô này vội ngắt lòi:

- Không, tôi có nói gì đâu. Anh tôi làm thế nào cũng phải cả.

Bà Magơloa làm như không có lời chối cãi ấy, cứ tiếp:

-
Chúng tôi bàn với nhau là cái nhà này cửa ngõ không chắc chắn gì cả. Đức
Cha cho phép thì con đến lão thợ khóa Pôlanh Muyzơboa bảo lão ta đến
tra ngay bộ then cũ vào cửa; hãy còn đủ cả đấy, chỉ một chốc là xong.
Thưa Đức Cha, thế nào cũng phải có then, dù là chỉ một đêm nay thôi. Chứ
cửa gì mà lại ở bên ngoài kéo cái cựa gà là mở ngay, ai muốn mở lúc nào
cũng được, đến là khiếp. Đã thế Đức Cha lại quen tính hễ nghe gõ cửa là
bảo cứ vào, nửa đêm gà gáy cũng chẳng cần xin phép xin tắc gì cả, thực
chẳng còn trời đất nào nữa...


Giữa lúc ấy có một tiếng đập cửa khá mạnh. Ông giám mục bảo:

- Cứ vào.





Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:22 pm

III



DŨNG CẢM NHẮM MẮT VÂNG LỜI




Cửa mở ra.

Cửa mở toang thật mạnh như có người đẩy thốc vào một cách quả quyết.

Một người bước vào.

Người ấy, chúng ta biết là ai rồi. Chính là người khách bộ hành lang thang tìm chỗ trọ ban nãy.

Hắn
bước vào một bước rồi dừng lại, cứ để cửa mở toang ở đàng sau. Hắn đeo
ba lô trên vai, tay cầm gậy mắt đầy vẻ thô lỗ, táo tợn, mệt nhọc và phũ
phàng. Ánh lửa trong lò sưởi rọi vào hắn. Trông hắn thật gớm chết. Chẳng
khác gì ma quỉ hiện hình.


Bà Magơloa giật nẩy mình, sợ hết vía, bủn rủn cả người, chỉ đứng há hốc mồm không kêu nổi tiếng nào.


Baptistin quay ra thấy người lạ mặt vào thì hoảng hốt nhổm người lên,
nhưng dần dần ngoảnh mặt về phía lò sưởi, nhìn kỹ ông anh, nét mặt cô
trở lại bình tĩnh và trong sáng.


Ông giám mục bình tĩnh nhìn khách.

Ông
vừa định cất tiếng hỏi khách muốn gì thì người lạ mặt chống cả hai tay
lên đầu gậy, đưa mắt nhìn hết ông già đến hai người đàn bà và không chờ
ông hỏi, lớn tiếng nói:


-
Thế này này, tôi tên là Giăng VanGiăng, tù khổ sai. Tôi đã ở mười chín
năm trong nhà lao. Tôi được thả bốn hôm nay và bây giờ tôi đương đi về
Pôngtácliê. Bốn ngày nay tôi đi bộ từ Tulông về đây. Ngày hôm nay đi
những mười hai dặm. Lúc chập tối đến đây, tôi vào một hàng cơm, họ đã
đuổi tôi vì tấm thông hành màu vàng tôi đưa trình ở thị xã. Không đưa
trình sao được! Tôi lại đến một quán khác, chỗ nào họ cũng bảo: “Cút
đi”. Chẳng ai muốn chứa tôi cả. Tôi đến đằng chỗ nhà giam người gác
không chịu mở cửa. Tôi chui vào một cái ổ chó, chó cũng cắn tôi và đuổi
tôi y như người vậy, ý chừng nó cũng biết tôi là người như thế nào. Tôi
bỏ ra ngoài đồng định tìm chỗ ngủ dưới ánh sao trời. Trờ
i
lại tối đen, không có sao. Tôi sợ mưa. Có Đức Chúa nào tốt để ngăn khỏi
mưa đâu, nên tôi lại trở vào tỉnh tìm một xó cửa. Đến quảng trường, tôi
đã định ngủ trên ghế đá thì có một bà già phúc đức trỏ nhà ông và bảo:
“Cứ gõ cửa mà vào”. Thế là tôi gõ cửa. Đây là đâu? Có phải là một quán
trọ không? Tôi có tiền. Tiền lưu công đấy. Một trăm linh chín phơrăng
mười lăm xu tiền công của tôi làm trong mười chín năm ở tù. Tôi sẽ trả
tiền. Có hề gì đâu! Tôi có tiền mà. Cuốc bộ những mười hai dặm, bây giờ
tôi mệt quá rồi và đói lắm. Ông có cho tôi ở lại đây không?


- Bà Magơloa, dọn thêm một người ăn nữa.

Người lạ mặt bước tới gần cây đèn để trên bàn. Hình như hắn chưa hiểu ra sao cả nên nói tiếp:

- Này, không phải thế. Ông đã nghe rõ chưa? Tôi là một thằng tù khổ sai, một thằng trọng phạm vừa đi đày về.

Hắn rút trong túi một tờ giấy vàng rộng khổ, mở ra:

-
Đây, giấy thông hành của tôi đây, ông xem, màu vàng đấy. Cũng vì nó mà ở
đâu người ta cũng xua đuổi tôi. Ông có muốn đọc không? Tôi cũng biết
đọc đấy. Học ở trong tù mà. Họ có mở lớp cho ai muốn học thì học. Đây
này, người ta ghi vào giấy thông hành như thế này: “Giăng VanGiăng, tù
khổ sai được mãn hạn, sinh tại... – cái này ông chẳng cần biết làm gì...
– đi đày mười chín năm. Năm năm vì tội ăn trộm có trèo tường bẻ khóa.
Mười bốn năm vì tội toan vượt ngục bốn lần. Tên này rất nguy hiểm”. Đấy,
ai cũng tống cổ tôi ra ngoài. Còn ông, ông có chịu chứa không? Đây có
phải là quán trọ không? Ông có cho tôi ăn và ngủ lại không? Có cái
chuồng ngựa nào không?


Ông giám mục lại gọi:

- Bà Magơloa, lấy tấm khăn trắng trải lên giường khách.

Bà Magơloa vâng lời bước ra. Cách hai bà già trong nhà này vâng lời ông giám mục như thế nào, chúng tôi đã trình bày rồi. Ông giám mục lại quay sang phía khách:

- Kìa ông, ngồi xuống đây mà sưởi cho ấm. Một lát nữa chúng ta sẽ ăn cơm. Trong khi ăn sẽ có người dọn giường để ông nghỉ.

Đến
đây khách mới thật hiểu. Nét mặt hắn từ nãy đến giờ tối sầm và khắc khổ
bỗng lộ vẻ kinh ngạc, vui sướng, nghi ngại và trở nên kỳ lạ. Hắn lắp
bắp như một người điên:


-
Thật thế ư? Ông chứa tôi à? À, ông không duổi tôi, một tên tù khổ sai!
Mà ông lại gọi tôi bằng ông! Chứ không gọi thằng nọ thằng kía. Chả bù
với thiên hạ, họ chỉ quát: “Đồ chó, xéo ngay!” Ban nãy tôi cũng tưởng
rồi ông sẽ đuổi tôi nên tôi phải nói ngay tôi là ai cho ông biết. Chao
ôi! May làm sao mà lại gặp cái bà quí hóa, bà chỉ cho tôi vào đây! Tôi
có cơm ăn! Lại có giường nắm! Cả chăn đệm nữa! Như tất cả mọi người!
Nhưng mười chín năm nay, tôi có hề được nàm giường bao giờ đâu! Hóa ra
thật tình ông bằng lòng cho tôi ở lại đây. Các ông bà phúc đức quá. Vả
lại, tôi có tiền cơ mà. Tôi xin trả sòng phẳng cả. Ông bỏ lỗi cho, tên
ông là gì nhỉ, ông chủ quán? Ông tính bao nhiêu tôi cũng trả. Ông tử tế
lắm mà. Ông là chủ quán có phải không?


Ông giám mục nói:

- Tôi là một nhà tu hành, nhà ở đây.

-
Một nhà tu hành! Ồ, một nhà tu hành phúc đức! Thế thì ông không bắt tôi
trả tiền à? Té ra ông là cha xứ phải không? Cha xứ ở cái nhà thờ to lớn
này? Ừ mà thật, ngốc quá, tôi lại không trông thấy cái mũ ni của ông
chứ!


Vừa
nói hắn vừa xách ba lô và cây gậy để vào một góc nhà, cất giấy thông
hành vào túi, rồi lại ghế ngồi. Cô Baptistin hiền từ nhìn hắn. Hắn nói
tiếp:


-
Cụ xứ ạ, cụ nhân đức thật. Cụ không khinh người. Một nhà tu hành nhân
đức kể cũng quí thật. Thế thì cụ không cần tôi trả tiền à?


- Không, ông cứ giữ lấy. Ông có bao nhiêu nhỉ? Lúc này ông bảo có một trăm linh chín phơrăng phải không?

- Với mười lăm xu nữa.

- Một trăm linh chín phơrăng mười lăm xu. Thế ông làm lụng bao lâu mới kiếm được số tiền ấy?

- Mười chín năm.

- Mười chín năm?

Ông giám mục thở dài não nuột. Khách lại nói:

-
Số bạc ấy tôi vẫn giữ nguyên chưa đụng tới. Bốn hôm nay tôi mới tiêu hết
có hai mươi lăm xu, lại là tiền công tôi dỡ hộ mấy xe hàng ở Gơrat. Cụ
là nhà tu hành thì tôi cũng xin nói là ở trong tù chúng tôi cũng có một
cha tuyên úy. Một bận tôi còn được trông thấy một ông giám mục nữa. Ai
nấy đều gọi là Đức Cha. Ông giám mục ấy ở nhà thờ Majo ở Macxây. Chừng
ông ta là cụ xứ ở trên tất cả các cụ xứ thì phải. Cụ bỏ lỗi cho, tôi
không biết nói thế nào cho rõ, nhưng đối với tôi, ông ấy xa xôi quá! Bận
ấy ông ta đến làm lễ ở giữa trại giam... ông ta đội một cái gì hình
nhọn bằng vàng. Ban trưa trời nắng, trông nó nhấp nha nhấp nhánh. Chúng
tôi xếp thành hàng đứng ra ba bên. Một lô súng thần công, mồi đốt sẵn,
chĩa vào trước mặt. Chúng tôi chẳng nhìn rõ. Ông ta có nói chuyện, nhưng
lại đứng tít tận trong cùng, chẳng nghe thấy gì cả. Đấy, ông giám mục
như thế đấy.


Trong khi khách nói, ông giám mục ra khép cửa từ nãy vẫn mở toang. Bà Magơloa vào, mang theo một bộ thìa nĩa bày ra bàn.

Ông giám mục dặn:

- Bà xếp cho ông khách ngồi gần lò sưởi nhé, càng gần càng tốt.

Ông quay sang phía khách:

- Ở vùng núi Anpơ này, ban đêm, gió buốt tợn. Ông hẳn là rét lắm nhỉ?

Một
lần ông giám mục gọi đến tiếng ông, giọng nói ôn tồn, trang trọng và rõ
là thân mật, gương mặt khách lại rạng rỡ hẳn lên. Một thằng tù mà được
gọi bằng ông, khác nào người đắm tàu sắp chết khát trên cái bè lênh đênh
giữa biển được người ta cho uống nước ngọt? Kẻ bị ô nhục thường khát
khao được trân trọng là thế.


Ông giám mục nói:

- Cái đèn này không được sáng lắm.

Bà Magơloa hiểu ý. Bà sang buồng ngủ ông giám mục, lấy đôi cây đèn bằng bạc ở trên lò sưởi thắp lên và đem đặt lên bàn.

Khách nói:

-
Thưa cụ xứ, cụ tốt quá. Cụ không khinh tôi. Cụ lại tiếp đón tôi như
khách. Cụ lại sai đốt bạch lạp cho tôi được sáng. Mặc dầu tôi đã nói
thật với cụ tôi ở đâu đến và tôi là một kẻ khốn c
ùng như thế nào.


Ông giám mục ngồi bên se sẽ chạm tay khách:

-
Ban nãy, ông không cần xưng danh cho tôi biết ông là ai cũng được. Đây
không phải nhà của tôi, mà là nhà của Chúa Giêsu. Cửa nhà này không hỏi
khách vào nhà có tên không, mà chỉ hỏi có nỗi đau khổ gì không. Ông là
người đang đau khổ; ông lại đang đói khát; thì mời ông cứ vào. Xin đừng
nói đến ơn với huệ, đừng nói rằng tôi tiếp ông ở nhà tôi. Chẳng ai có
quyền coi nơi này là nhà riêng của mình, trừ những người đang cần chỗ
trú. Ông khách qua đương, tôi nói rõ như vậy, nhà này là của ông hơn là
của tôi. Tất cả cái gì trong nhà này bây giờ là của ông cả. Như thế, có
cần gì tôi phải biết họ tên ông? Vả lại, trước khi ông xưng danh, tôi đã
biết tên ông sẵn rồi.


Khách giương mắt nhìn, ngạc nhiên:

- Thật à? Cụ biết tên tôi là gì trước rồi ư?

- Vâng, ông tên là người anh em của tôi.

Hắn kêu lên:

-
Này, cụ xứ! Lạ quá, lúc mới vào thì tôi đói thế, mà thấy cụ tốt quá, bây
giờ tôi không biết tôi ra làm sao nữa, hết cả đói, cụ ạ.


Ông giám mục nhìn khách, hỏi:

- Ông đã từng chịu đau khổ nhiều phải không?

-
Chao ôi! Áo tù nhân màu đỏ, đeo tạ ở chân, một tấm ván làm giường, rồi
nóng bức, rét mướt, lao công khổ dịch, roi vọt! Hơi một tí là xích cả
hai chân. Lỡ một tiếng là ngục tối. Ốm liệt giường cũng xích cùng cùm.
Nghĩ kiếp con chó, con chó còn sướng hơn. Mười chín năm trời! Bốn mươi
sáu tuổi rồi. Đến giờ lại phải đeo cái giấy thông hành vàng! Cái kiếp
của tôi nó thế đấy.


-
Vâng. Ông vừa ở một chốn sầu khổ ra. Tôi nói ông nghe. Trên trời sẽ dành
cho gương mặt đẫm lệ của một người hối lỗi nhiều hạnh phúc hơn cho
chiếc áo trắng tinh của hàng trăm người chính trực đó ông ạ. Nếu ông từ
nơi đau khổ ấy bước ra với những tư tưởng hằn thù và căm giận đối với
người đời, ông là một người đáng thương; nhưng nếu ông từ đó ra với
những tư tưởng độ lượng và hiền hòa, thì chúng tôi không ai bằng ông
được.


Lúc ấy, bà Magơloa bưng thức ăn lên. Một món xúp nấu với dầu, bánh mì và muối, mấy lát m,
một miếng thịt cừu, mấy quả vả, một miếng pho mát tươi và một cái bánh
mì lớn. Bà còn tự ý thêm vào bữa ăn thường nhật ấy một cha
i rượu vang cũ xứ Môvơ.


Nét mặt ông giám mục bỗng dưng tươi vui hẳn lên, cái tươi vui riêng của những người hiếu khách. Ông nói to:

- Nào, ta ăn đi!

Theo
thường lệ, những khi nhà có khách ăn cơm, ông mời khách ngồi ở phía bên
phải mình. Cô Baptistin điềm tĩnh và tự nhiên, ngồi sang phía bên trái.
Ông đọc kinh, rồi vẫn như mọi ngày, đích thân múc xúp ra. Khách bắt đầu
ăn ngốn ngấu.


Bỗng ông giám mục bảo:

- Chừng như trên bàn này còn thiếu một thứ gì.

Thì
ra bà Magơloa chỉ bày có ba bộ thìa nĩa bạc vừa đủ cho ba người thôi.
Song lệ nhà xưa này hễ có mời khách, thì phải bày cả sáu bộ, kể cũng là
một cách phô trương vô tội. Trong cái gia đình êm ả và nghiêm nghị mà
mọi người coi sự thanh bạch như là danh giá này, chút phù hoa ấy vẫn có
gì ngây thơ, đáng mến thật.



Magơloa hiểu ngay câu trách ấy, lẳng lặng quay ra và mấy phút sau thì ba
bộ thìa nĩa còn lại, mà ông giám mục hỏi, đã được bày sáng trưng trên
bàn, đối diện với ba người ngồi ăn.

IV




CHI TIẾT VỀ NHỮNG XƯỞNG PHO MÁT Ở PÔNGTÁCLIÊ





Đến
đây chúng tôi xin sao lục một đoạn trong bức thư của cô Baptistin gửi
cho một bà bạn kể lại tỉ mỉ mà hơi ngây ngô câu chuyện giữa ông giám mục
và người tù khổ sai, để hình dung quang cảnh bữa ăn tối hôm ấy:


.......................................

“...Người ấy không chú ý đến ai cả. Anh ta ăn ngốn ngấu như người sắp chết đói. Tuy thế dùng xong món xúp, anh ta nói:

-
Cụ xứ của Đức Chúa lành ạ, các món ăn này đối với tôi đã là quá ngon,
nhưng thật tình thì cái bọn phu xe tải ban nãy không muốn cho tôi cùng
ăn, bọn ấy họ còn ăn sướng hơn cụ nhiều.


Chỗ chị em tôi nói riêng với bà là câu nói đó, tôi thấy có hơi trái tai. Anh tôi trả lời:

- Họ làm ăn vất vả hơn tôi.

Khách đáp:

-
Họ có nhiều tiền hơn. Cụ thì nghèo, tôi thấy rõ. Có lẽ cụ chưa đến chức
cha xứ. Cụ đã được đến chức cha xứ chưa? Ồ, sao lại vô lý thế nhỉ! Chúa
mà công minh thì cụ phải lên cha xứ rồi mới phải.


Anh tôi đáp:

- Chúa còn hơn là công minh đấy, ông ạ.

Một lúc sau, anh tôi lại thêm:

- Ông Giăng VanGiăng, ông đi Pôngtácliê phải không?

- Vâng, hành trình, họ lại định trước cho nữa đấy.

Tôi nhớ hình như anh ta nói thế. Rồi anh ta lại tiếp:

- Mai, tang tảng sáng tôi lại phải đi ngay. Đi đường lúc này vất vả lắm. Đêm lạnh mà ngày thì nóng bức.

Anh tôi nói:

-
Vùng ông đi về là một vùng dễ sống đấy. Hồi Cách mạng, gia đình tôi sa
sút, lúc đầu tôi có lánh sang Phơrăng Côngtê và sống bằng lao động chân
tay ở đấy ít lâu. Tôi có chí. Tôi tìm được việc làm. Kể ra thì tha hồ mà
chọn. Ở đấy, nào là nhà máy giấy, nhà máy thuộc da, nhà máy rượu, nhà
máy dầu, xưởng chế tạo đồng hồ hàng loạt, xưởng nấu thép, đúc đồng, ít
nhất là hai mươi nhà máy luyện sắt và bốn nhà ở Lốt, Satiông, Ôđanhcua
và Bơ thì thật là đồ sộ...


Có lẽ tôi không nhớ sai đâu, anh tôi đã kể đến tên tất cả các xứ đó rồi ngừng lại hỏi tôi:

- Này cô, ta có ai là bà con xứ ấy không nhỉ?

Tôi đáp:

- Trước kia có đấy, như ông Luyxơnê chỉ huy đạo quan phòng thành ở Pôngtácliê hồi chế độ cũ.

Anh tôi nói:

-
Phải, nhưng hồi năm 93 thì chẳng còn thân thích nào nữa, mình chỉ còn
cậy vào sức mình. Tôi đã ra sức làm việc. Ông Giăng VanGiăng này, ở xứ
Pôngtácliê mà ông sắp đến, có một nghề gia truyền thật là dễ ưa, cô nhỉ!
Cái nghề làm pho mát ấy mà – Anh tôi vừa tiếp cơm khách, vừa cắt nghĩa
cho nghe tỉ mỉ về những xưởng làm pho mát ở Pôngtácliê. Có những hai
loại: những hai loại: những xưởng to của nhà giàu, nuôi đến bốn năm mươi
bò sữa, sản xuất ra mỗi vụ hè từ bảy đến tám nghìn bánh pho mát; những
xưởng hợp tác thì thuộc người nghèo. Nông dân nghèo ở lưng chừng núi đem
bò nuôi chung rồi chia nhau sản phẩm. Họ chung nhau thuê một người làm
thợ pho mát. Người này thu sữa của các xã viên một ngày ba lần và đánh
dấu số lượng trên một miếng gỗ, vào cuối thán
g tư thì các xưởng làm pho mát bắt đầu hoạt động, đến giữa tháng sáu thì những người thợ pho mát lại đánh bò lên núi.


Ăn
vào, nét mặt khách dần dần tươi tỉnh lại. Anh tôi cứ rót rượu mời khách,
thứ rượu vang cũ xứ Môvơ ấy, chứ riêng mình thì không nếm đến, cho là
thứ rượu đắt tiền. Anh tôi nói chuyện vui vẻ, lưu loát như bà đã từng
biết, đem kể mọi chi tiết cho khách nghe, thỉnh thoảng lại quay nhìn tôi
một cách thân mến. Anh tôi nhắc đi nhắc lại chuyện làm pho mát như có ý
mong để khách hiểu, chứ không lấy lời trực tiếp và cứng cỏi khuyên anh
ta rằng đó là nơi có thể dung thân được. Có một điều làm tôi ngạc nhiên.
Người khách ấy là người thế nào thì tôi đã nói với bà rồi. Thế mà trong
suốt bữa cơm suốt cả buổi tối, ngoài mấy câu về Chúa Giêsu lúc khách
mới vào, anh tôi không hề có một lời nhắc khách nhớ lại khách là người
như thế nào
và nói rõ cho khách nhớ lại khách biết, anh tôi là ai. Bà tính, rõ ràng
đó là cơ hội để giảng một chút về đạo lý và lấy đức độ ông giám mục ấn
mạnh lên tâm hồn anh tù để anh ta ghi nhớ mãi buổi gặp gỡ này. Một người
khác gặp được kẻ khốn khổ như thế, tất đã vừa cho thần xác ăn uống no
nê lại vừa cho phần hồn được nghe những lời phê bình, có mùi vị khuyên
bảo, răn dạy, hoặc những lời thông cảm thương hại kèm theo mấy câu
khuyến khích người ta sửa chữa về sau. Anh tôi thì không hề hỏi một câu
về quê quán, lai lịch của khách. Vì trong lai lịch ấy tất nhiên có tội
lỗi đã qua, cho nên hình như anh tôi có ý tránh không muốn nhắc cho
khách nhớ đến. Thậm chí, khi nói chuyện về người miền núi Pôngtácliê họ làm ăn thoải mái ở những vùng cao gần trời và họ rất sung sướng vì tâm hồn họ trong trắng,
anh tôi bỗng ngừng bặt, sợ câu nói lỡ lời đó có điều gì làm phật lòng
khách chăng. Nghĩ kỹ ra, tôi mới đoán được bụng anh tôi. Ý hẳn anh tôi
thấy rằng con người ấy – anh ta tên Giăng VanGiăng – tâm trí lúc nào
cũng nghĩ ngợi đến nỗi khốn khổ của mình rồi, tốt hơn hết là làm cho
người ta khuây khỏa và làm cho người ta tin tưởng, dù chỉ trong chốc
lát, rằng người ta cũng là một con người như mọi người khác vì thấy mình
đối
x
với người ta cũng tự nhiên như đối với mọi người. Có phải như thế là
hiểu đúng nghĩa chữ thương người không nhỉ? Có phải cách anh tôi giữ gìn
ý tứ tuyệt nhiên không nói gì đến đạo lý, nhân nghĩa, không nói gì xa
xôi bóng gió cả, cách ấy có cái gì thật là tế nhị, thật là từ bi không
bà chị? Có phải cách thương người thắm thiết nhất khi đứng trước một
người đau khổ là đừng đả động gì đến điều đau khổ ấy phải không? Theo
tôi, hình như thâm ý của anh tôi hôm ấy là thế. Dù sao, tôi chỉ thấy một
điều rất rõ là dù anh tôi có nghĩ như vậy đi chăng nữa, anh tôi cũng
chẳng hề tỏ ra cho ai biết cả, với tôi cũng thế. Suốt buổi tối hôm ấy
anh tôi vẫn một thái độ như thường ngày, ngồi ăn với cái anh Giăng
VanGiăng ấy vẫn niềm nở, thận trọng như ngồi ăn với ông Lơ Prêvô hay cụ
xứ bản hạt vậy.


Lúc
gần xong bữa, ăn đến món vả thì có người gõ cửa. Mụ Giécbô ẵm đứa con
nhỏ vào. Anh tôi hôn vào trán đứa bé, hỏi vay tôi mười lăm xu đưa cho
mụ. Lúc ấy, khách không hề để ý gì hết, chẳng nói chẳng rằng, ra dáng
mệt mỏi lắm. Mụ Giécbô ra rồi, anh tôi đọc kinh cầu nguyện rồi quay bảo
khách: “Chắc ông cần nghỉ lắm rồi!” Bà Magơloa thu dọn bàn thật nhanh.
Tôi biểu là phải cáo lui để khách đi nghỉ nên bà Magơloa và tôi đều lên
gác ngay. Sau đó, tôi sai bà Magơloa đem xuống cho khách một tấm chăn da
hươu vẫn để trong phòng tôi, vì tháng ấy đêm lạnh lắm. Đắp nó mới đủ
ấm. Chỉ hơi phiền một tí là cái chăn đã cũ, sờn hết cả lông. Anh tôi mua
từ hồi còn ở Tôtlingien, gần nguồn sông Đanuyp, bên nước Đức ấy, một
lần với con dao cán ngà tôi vẫn thường dùng.



Magơloa xuống một chốc rồi trở lên ngay; chúng tôi cùng cầu nguyện ở chỗ
căn phòng thường phơi quần áo, rồi ai về phòng nấy không trò chuyện gì
với nhau cả”.




V



TĨNH MỊCH



Ông Mirien chúc cô em ngon giấc xong, cầm một cây đèn bạc trên bàn lên, đưa cây kia cho khách và nói:
- Nào, tôi xin đưa ông về phòng.
Khách bước theo.
Như đã nói ở đoạn trên, ta biết rằng theo cách bố trí trong nhà ấy, hễ muốn đi vào phòng nguyện trong đó có ngăn kê giường khách hay muốn từ đó ra ngoài là phải qua buồng ngủ ông giám mục.
Giữa
lúc hai người đi qua chỗ phòng ngủ ấy, bà Magơloa đang xếp cất bộ đồ
bạc vào ô ở chỗ đầu giường. Bữa nào, trước khi đi ngủ, bà cũng nhớ làm
công việc thu dọn cuối cùng ấy.

Ông
giám mục đưa khách vào tận chỗ ngủ. Ở đây giường đã trải khăn trắng
tinh. Khách đặt cây đèn xuống chiếc bàn con. Ông giám mục bảo:

- Thôi, chúc ông ngủ cho ngon giấc. Sáng mai, trước khi lên đường, mời ông xơi một cốc sữa thật nóng, bò nhà nuôi.
- Cám ơn cha.
Vừa
nói xong câu nói hòa bình ấy, đột nhiên hắn thay đổi một cách lạ lùng,
không ngờ được. Giá bây giờ có hai bà già hiền lành ở đấy thì hai bà hẳn
đến chết khiếp. Cho đến nay chúng tôi khó mà hiểu cái gì đã khiến hắn
như thế. Hắn muốn báo trước hay là muốn đe dọa? Hay là hắn chỉ nghe theo
một sức mạnh gì của bản năng mà chính hắn cũng không sao hiểu được? Hắn
quay phắt về phía ông già, khoanh tay lại, giương đôi mắt dữ tợn nhìn
trừng trừng vào mặt ông ta và cất giọng khàn khàn:

- Ồ, như thế này thật à? Để tôi ngủ trong nhà ở ngay cạnh ông thế này à?
Hắn ngừng lại, cười một cách ghê tợn, rồi tiếp:
- Ông đã nghĩ kỹ chưa? Ai bảo ông rằng tôi không phải là kẻ sát nhân?
Ông giám mục ngước mắt lên trần nhà, đáp:
- Điều ấy đã có Chúa lo.
Nói đoạn, ông nghiêm trang giơ hai ngón tay bên phải lên làm phép
ban phúc cho khách, miệng lẩm bẩm như người cầu kinh hay tự nói với
mình. Nhưng khách vẫn đứng yên không cúi đầu. Xong, ông trở về phòng
mình, không hề quay đầu nhìn lại.

Mỗi khi nhà chái có khách nghỉ, một tấm màn vải rộng ngăn đôi phòng nguyện che kín bàn thờ. Qua trước tm màn, ông giám mục quì xuống, đọc một đoạn kinh ngắn.
Một
lúc sau, ông ra vườn đi đi lại lại, vừa nghĩ vơ vẩn, vừa ngắm cảnh, tâm
trí để cả vào bao nhiêu vẻ lớn lao huyền diệu của trời đất bày ra dưới
đất, bày ra dưới mắt người thao thức lúc đêm khuya.

Còn
khách thì mỏi mệt quá đến nỗi chẳng nghĩ gì đến chăn đệm sạch sẽ, ấm áp
nữa. Hắn phồng mũi thổi đèn theo thói quen của tù khổ sai rồi cứ để
nguyên quần áo lăn vào giường ngủ như chết.

Ông giám mục ở ngoài vườn bước về phòng mình thì đồng hồ gõ mười hai tiếng. Ít phút sau, trong nhà ngủ im cả.


VI


GIĂNG VANGIĂNG


Vào khoảng nửa đêm, Giăng VanGiăng thức giấc dậy.
Giăng
VanGiăng sinh ra ở một gia đình nông dân nghèo xứ Bri. Lúc nhỏ, anh ta
chẳng được học hành gì. Lớn lên anh làm nghề xén cây ở Phavơrôn. Mẹ anh
là bà Gian Machiơ, cha là ông Giăng VanGiăng hoặc là Vola Giăng, có lẽ
do chung quanh gọi đùa là
Vola Giăng mà thành tên ấy. (Voila Joan có nghĩa là Giăng đấy)

Giăng
VanGiăng tính hay tư lự mà không buồn: chỉ những người giàu tình cảm
mới như thế. Nói đúng ra, nhìn bề ngoài thì thấy anh ta cũng lừ đừ và
chẳng có gì xuất sắc. Cha m

anh mất từ hồi anh còn nhỏ dại. Mẹ anh chết vì một cơn sốt xuống sữa mà
không biết cách thuốc thang. Cha anh trước cũng làm nghề xén cây, sẩy
chân nên thiệt mạng. Vangiăng chỉ còn một người chị góa chồng, trên tay
bảy đứa con dại, vừa trai vừa gái.


chị ấy đã nuôi Giăng và lúc sinh thời ông anh rể, Giăng vẫn ăn ở trong
nhà chị. Lúc anh rể chết. Lũ con, đứa lớn nhất mới lên tám, đứa út mới
đầy năm. Giăng năm ấy vừa đúng hai mươi lăm tuổi. Thế là Giăng thay anh
rể đi làm giúp chị nuôi các cháu. Rất là giản dị: anh coi đó là một bổn
phận phải làm, nhưng vẫn càu nhàu vì bản tính. Cả thời trai trẻ, anh làm
quần quật suốt ngày mới tìm nổi cái ăn nên chẳng nghe nói anh ta có
nhân tình nhân ngãi gì, vì thời giờ đâu mà nghĩ đến chuyện yêu đương.

Tối
đến đi làm về mệt nhoài, anh lẳng lặng ngồi ăn xúp. Bà chị thỉnh thoảng
lại chọn những miếng ngon trong đĩa anh, miếng thịt, l
át
mỡ, cái nõn cải, lấy đút cho con. Còn anh, anh để tóc xõa cả ra quanh
đĩa, che kín cả mặt, cứ cắm đầu ngồi ăn, mặc kệ, làm như không thấy gì. Ở
Phavơrôn, gần nhà Vangiăng, phía bên kia đường đi, có nhà chị tá điền
Mari Cơlốt. Lũ trẻ nhà Vangiăng ngày nào cũng ăn đói. Đôi khi chúng chạy
sang nhà chị ta, nói dối là mẹ sai sang vay ít sữa rồi đem nhau lại chỗ
sau hàng rào hoặc ở đầu ngõ, tranh giằng nhau húp vội húp vàng làm sữa
đổ cả ra quần áo. Bà Gian mà biết được thói vụng trộm ấy thì mỗi đứa
cũng được trân đòn. Giăng có nóng nảy, cau có, nhưng lại giấu chị, đến
trả chỗ tiền sữa cho chị Mari Cơlốt và như thế là các cháu khỏi phải
đòn.

Về mùa xén cây, anh kiếm được mỗi ngày hai mươi bốn xu. Hết mùa anh quay ra đi giặt
thuê làm mướn, chăn bò, khuân vác, gặp việc gì làm được thì làm. Phần
bà chị cũng cố gắng làm lụng, nhưng một nách bảy đứa con dại thì là được
mấy nỗi? Cảnh nhà thật thiểu não, quanh năm túng thiếu và mỗi ngày một
nghèo ngặt thêm. Một năm, trời làm rét quá, Giăng không có việc làm.
Trong nhà không có lấy một mẩu bánh. Đúng y như thế. Không một mẩu bánh
mà những bảy đứa trẻ thơ.

Một
buổi tối chủ nhật, trong nhà lão Môbe Ydabô chủ hàng bánh mì trước nhà
thờ Phavơrôn đã dọn dẹp sắp đi ngủ. Chợt thấy có tiếng đập mạnh ở chỗ
mặt ngoài cửa hàng có chăng lưới thép và lắp kính. Lão chạy ra và kịp
thấy một cánh tay thò qua chỗ kính vỡ và dây thép đứt, đang vơ lấy một
chiếc bánh và lôi ra ngoài. Lão vội chạy ra: tên ăn trộm sải chân chạy
trốn; lão đuổi theo và tóm được. Tên trộm đã vứt bánh đi nhưng cánh tay
có máu me đầm đìa. Thì ra chính là Giăng VanGiăng.

Việc
ấy xảy ra năm 1795. Giăng bị đưa ra tòa truy tố về tội “ăn trộm ban đêm
có phá cửa trong một nhà có người ở”. Anh lại có một khẩu súng săn và
bắn rất giỏi, thỉnh thoảng vẫn đi bắn trộm chim chóc trong rừng. Điều ấy
làm hại anh thêm. Đối với kẻ đi săn trộm chim muông, người ta vẫn có
thành kiến là đúng, vì kẻ đi săn trộm cũng như người buôn lậu thì không
xa bọn kẻ cướp là mấy. Có điều nhân tiện cũng nên nói rằng giữa hạng
người này và bọn giết người cướp của đáng ghê tởm ở thành thị vẫn khác
nhau một trời một vực. Kẻ săn trộm chim sống trong rừng, tay buôn hàng
lậu sống ở trên núi hoặc dưới biển. Thành thị làm cho con người thối
tha, do đó trở nên độc ác. Còn núi rừng, biển cả thì có tạo ra những con
người man rợ, có phát triển phần hung dữ, nhưng không thủ tiêu phần
nhân tính họ. Tòa án tuyên bố Giăng VanGiăng có tôi. Luật lệ đã rành
rành ra đấy, không có cách gì khác. Trong xã hội văn minh của chúng ta
có những giờ phút đáng sợ, là những lúc luật pháp tuyên án đẩy người ta
vào một cuộc trầm luân. Còn gì thê thảm bằng cái phút giây mà xã hội
lánh xa và dứt khoát vứt bỏ một con người biết suy nghĩ! Giăng VanGiăng
bị kết án năm năm khổ sai.

Ngày 22 tháng 4 năm 1796 người ta loan báo khắp Paris tin chiến thắng Môngtơnốt của đạo quân đánh ở Ý. Thông điệp của Hội đồng đc chính gửi cho viện Ngũ bách ngày 2 tháng hoa nở năm Cộng hòa thứ tư, gọi người tổng chỉ huy đạo quân ấy là Buyônapác(Bấy
giờ viện Ngũ bách- 500 đại biểu là viện lập pháp Hội đồng đốc chính – 5
đốc chính, là cơ quan hành pháp tối cao; Tức tháng 5, theo lịch mới của
chế độ Cộng hòa)
.Cùng
ngày ấy, ở nhà ngục Bixết người ta đã xích trong một dây xích tù thật
lớn, Giăng VanGiăng bị khóa vào dây xích đó. Một người lính canh ngục
cũ, năm nay đã gần chín mươi tuổi, còn nhớ như in con người đáng thương
ấy bị cùm vào cuối dây người thứ tư ở góc phía bắc sân nhà ngục. Anh ta
ngồi bệt xuống đất như mọi người khác. Chừng như anh ta cũng không hiểu
tình cảnh mình ra làm sao nữa, chỉ biết là kinh khủng quá. Trong ý nghĩ
lờ mờ của con người ù ù cạc cạc với tất cả mọi việc như anh, có lẽ anh
cũng mang máng thấy rằng trong việc đó có cái gì quá đáng.

Trong
khi người ta quai mạnh búa để tán chiếc đinh trên cái gông cổ phía sau
gáy, anh khóc lên, nghẹn ngào không nói nên lời, chốc chốc mới thốt được
một câu: “Tôi làm nghề xén cây ở Phavơrôn”. Rồi anh vừa nức nở
và giơ tay lên, hạ xuống bảy lần, mỗi lần mỗi hạ thấp hơn, trông như anh
đang lần lượt sờ đầu bảy đứa trẻ lớn nhỏ khác nhau. Trông cử chỉ ấy
người ta đoán biết anh đã làm điều phi pháp gì đó cũng là vì miếng cơm
manh áo của bảy đứa bé con.

Anh
bị giải đi Tulông. Hai mươi bảy ngày ròng rã trên một chiếc xe bò,
xiềng xích luôn mang trên cổ. Đến Tulông, anh thay áo tù khổ sai. Cả
quãng đời của anh trước đây đều bị xóa mờ, xóa mờ cả tên tuổi; anh không
còn là Giăng VanGiăng nữa, anh là con số 24.601. Còn bà chị anh rồi ra
sao? Bảy đứa bé rồi ra sao? A
i là người chăm lo cho cái gia đình ấy? Cái cây non đã cưa mất gốc, nắm lá sẽ thế nào?

Thì
ra chuyện đời vẫn cứ thế. Những con người đáng thương ấy, những sinh
linh của Chúa ấy, từ đây không nơi nương tựa, không kẻ dìu dắt, không
chỗ trú chân lang thang trôi giạt, rồi biết đâu sẽ không mỗi người mỗi
ngả, dần dần vào cái đám sương mù lạnh lẽo đã chìm đắm bao nhiêu kiếp
người cô đơn, cái cõi tối tăm thê lương đã làm mất bóng bao nhiêu cuộc
đời bất hạnh trong bước đường âm u của nhân loại! Họ bỏ làng ra đi. Cái
gác chuông ở nơi gọi là làng quê cũ quên họ đi. Cái bờ ruộng ở nơi gọi
là cánh đồng làng quên họ đi. Sau vài ba năm trong tù, ngay cả Giăng
VanGiăng cũng quên nốt họ đi. Vết thương trong lòng anh đã thành sẹo.
Thế là hết. Trong cả thời gian ở Tulông, chỉ có mỗi một lần anh được
nghe tin tức bà chị. Hình như là vào khỏang cuối năm thứ tư sau khi anh
vào tù. Cũng không rõ tin tức ấy đã đưa đến bằng cách nào. Chỉ biết có
người trước kia có quen anh ở quê nhà một lần có gặp bà chị. Bà ở Paris,
trong một xóm nghèo gần nhà thờ Xanh Xuynpit, phố Gianhđơrơ. Bà chỉ còn
đem theo có mỗi một đứa con, thằng con trai út. Còn s
áu
đứa kia hình như chính bà cũng không biết chúng ở đâu nữa. Sáng sáng bà
đến một xưởng in ở phố Xabô, nhà số 3, làm việc gấp giấy và đóng sách.
Mùa đông trời chưa sáng, sáu giờ đã phải có mặt. Trong xưởng có một
trường học. Đứa bé lên bảy, bà đem theo gửi học ở đấy. Có điều, sáu giờ
bà đã vào xưởng mà đến bảy giờ trường mới mở cửa, nên thằng bé phải chờ
ngoài sân ngót giờ đồng hồ, phải, ngót giờ đồng hồ ngoài trời mùa đông
trong lúc còn tối mịt. Người ta không muốn cho nó vào xưởng, bảo là làm
vướng bận công việc. Thợ thuyền sáng sớm qua đó, thấy thằng bé ngồi xổm
ngoài hè, ngủ gà ngủ gật, có khi thiếp đi trong xó tối, gập người trên
chiếc giỏ mây. Gặp hôm trời mưa, bà cụ gác cổng thương hại, nhặt nó vào
trong túp lều của bà. Trong lều độc có một cái phản, cái guồng quay sợi
và hai cái ghế gỗ. Thằng bé ngủ lăn ra ở một xó nhà, tay ôm con mèo cho
đỡ rét. Đến bảy giờ trường mở cửa, nó mới vào học.

Người
ta nói với anh có bấy nhiêu. Nhưng lúc anh nghe mấy lời ấy, thì dường
như trong phút giây, trong chớp mắt, có cánh cửa sổ nào bỗng dưng đã mở
toang cho anh nhìn thoáng thấy cuộc đời của mấy người thân yêu, rồi sau
đó lại khép lại, tối t
ăm
mù mịt. Từ đó anh chẳng còn nghe tin tức gì về những người thân yêu ấy
nữa. Mà cũng chẳng bao giờ anh thấy lại họ, chẳng bao giờ anh còn gặp
họ. Ở những đoạn tiếp theo của câu chuyện thương tâm này ta cũng không
còn tìm thấy họ nữa.

Vào khoảng cuối cái năm thứ tư ấy thì đến lượt Giăng VanGiăng vượt ngục. Ở chốn lao tù sầu thảm này, bọn
đồng cảnh vẫn thường giúp đỡ nhau việc đó. Anh trốn ra được và lang
thang hai ngày ngoài cánh đồng. Nếu tự do nghĩa là: sau lưng có người
truy nã, lúc nào cũng phải ngoái cổ nhìn lại, hơi có tiếng động là giật
mình thon thót, thấy cái gì cũng sợ, từ mái nhà tỏa khói, người đi qua
đường, tiếng chó sủa, tiếng ngựa phi, tiếng chuông đồng hồ, đến ban ngày
vì ban ngày người ta nom rõ, ban đêm vì ban đêm không trông thấy gì,
đến con đường lớn, cái lối mòn, đến bụi cây, giấc ngủ, cũng đều sợ tuốt
thì hai ngày ấy anh ta được tự do.
Đến
tối ngày thứ hai thì anh ta bị bắt lại, sau ba mươi sáu tiếng đồng hồ
chẳng ăn chẳng ngủ gì. Sau đó, tòa án thủy quân phạt thêm ba năm khổ
sai. Năm thứ s
áu
lại đến lượt anh được vượt ngục; anh nắm ngay cơ hội nhưng trốn không
trót lọt. Điểm danh thấy thiếu, người ta bắn phát súng đại bác báo hiệu
và đến đêm thì lính tuần tìm được anh trốn dưới chiếc vỏ tàu đang đóng
dở. Lúc bị bắt anh chống cự lại với lính coi ngục. Thế là cái t
i
vừa vượt ngục vừa kháng cự kẻ thừa hành ấy, theo hình luật đặc biệt,
phải xử giam thêm năm năm nữa trong đó có hai năm phải đeo xiềng đôi.
Cộng là mười ba năm. Đến năm thứ mười lại đến lượt anh trốn nữa và anh
cũng không bỏ lỡ cơ hội. Nhưng lần này cũng không may gì hơn. Lại ba năm
nữa, thành mười s
áu
năm. Sau cùng hình như đến năm thứ mười ba, anh lại thử một lần chót
nữa nhưng chỉ ra ngoài được bốn tiếng đồng hồ thì bị bắt lại. Ba năm nữa
với bốn tiếng đồng hồ ấy. Cả thảy mười chín năm. Anh vào tù từ năm 1796
mà mãi đến tháng mười năm 1815, anh mới được thả ra. Như thế chỉ vì anh
đập một miếng kính và lấy một cái bánh mì.

Đến
đây cần mở một dấu ngoặc. Trông khi xét về hình luật và việc luật pháp
đày đọa con người, lần thứ hai tác giả lại gặp một vụ trộm bánh mì xuất
phát điểm của một kiếp trầm luân. Cơlốt Gơ đã lấy trộm một chiếc bánh.
Giăng VanGiăng cũng lấy trộm một chiếc bánh. Một thống kê tại Anh cho
biết trong năm vụ trộm, có bốn vụ trực tiếp do đói mà ra.

Lúc
vào tù Giăng VanGiăng run sợ, khóc lóc, đến khi ra, anh thành người
thản nhiên, trơ như đá. Lúc vào lòng anh tuyệt vọng, nay ra, lòng anh
đen tối. Cái gì đã xảy ra trong tâm hồn anh?
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:23 pm

VII

BÊN TRONG TUYỆT VỌNG



TA THỬ PHÂN TÍCH XEM




hội có nhiệm vụ phải thấy rõ những điều đó vì chính xã hội đã gây ra.
Như chúng ta đã biết, Giăng VanGiăng là một kẻ vô học, nhưng không phải
là người ngu ngốc. Trong con người anh vẫn có thứ ánh sáng của thiên
bẩm. Đau khổ cũng có cái ánh sáng của nó, làm cho tâm trí còn mơ hồ của
anh được sáng sủa thêm lên. Trong cuộc đời đày ải, khi roi vọt, xiềng
xích, lúc nằm ngục, lao dịch, khi ở ngoài nắng thiêu đốt, lúc nằm trên
tấm phản của nhà tù khổ sai, anh thường tự hỏi lương tâm và suy nghĩ.

Anh tự coi mình như quan tòa.
Và anh bắt đầu tự xét xử.
Anh
công nhận rằng anh không phải là một kẻ vô tội bị xử oan. Anh tự thú
nhận đã trót làm một việc cùng quẫn đáng chê trách. Anh mà ngửa tay xin
chiếc bánh kia thì chưa hẳn người ta không cho. Dù sao đi nữa, tốt hơn
là phải dằn lòng mà chờ cho bánh, hoặc do lao động mà có, hoặc con người
ta thương hại mà cho, còn nói: “đói ăn vụng túng làm càn” thì không
phải là một lý sự cứng đến không bẻ lại được. Bởi vì trước hết thực sự
vì đói
làm
chết thì cũng hiếm có; sau nữa, về bản chất con người ta lại có thể
chịu đựng rất lâu và rất nhiều mọi thứ đau khổ về tinh thần và thể chất
mà không chết, cái ấy không biết là một cái may hay là một cái rủi. Cho
nên phải biết nhẫn nại. Nhẫn nại thì tốt hơn, tốt cho cả lũ trẻ thơ kia
nữa. Chứ dám đem sức vóc yếu ớt của mình mà hùng hổ tóm lấy cổ cả một xã
hội và tưởng rằng có thể thoát khỏi cảnh đói rét bằng trộm cắp, thì
thật là một hành động điên cuồng. Nói gì thì nói chứ cái cửa để ra khỏi
đói rét mà cũng dẫn vào ô nhục thì rõ là cái cửa tồi. Tóm lại, anh có
sai lầm thật.

Rồi anh tự hỏi: phải chăng chỉ có mình gây ra cho mình kiếp sống oan nghiệt này?
Trước
hết, một người lao động như anh mà phải thất nghiệp, một người siêng
năng như anh mà phải đói khát thì phải đó là một hiện tượng nghiêm trọng
không? Sau nữa, đã mắc lỗi lầm mà biết thú nhận, thì trừng trị như thế
có độc ác và quá đáng không? Có phải như thế là trong việc trừng phạt,
luật pháp có đi quá trớn hơn là kẻ phạm tội quá trớn khi lầm lỗi không?
Có phải cán cân công lý đã quá nghiêng về phía bắt đền tội không? Xử
phạt nặng như thế có phải là để kẻ phạm tội chuộc tội không? Hay là lại
đưa đến kết quả đảo ngược vai trò, biến cái sai lầm của kẻ phạm tội ra
cái sai lầm của con người trấn áp, biến thủ phạm thành nạn nhân, biến
con nợ thành chủ nợ và cuối cùng đem công lý đặt về bên kẻ đã xâm phạm
vào công lý? Phải chăng hình phạt ấy, cái hình phạt liên tiếp gia nặng
thêm vì các lần toan vượt ngục, cuối cùng chỉ là một thứ ức hiếp của kẻ
mạnh đối với kẻ yếu, một tội ác của xã hội đối với cá nhân, một tội ác
hàng ngày tái diễn và kéo dài đến mười chín năm trời?

Anh
tự hỏi xã hội sao lại có quyền bắt con người phải chịu đựng, một mặt là
cái thói không phòng xa phi lý, một mặt là cái lối đề phòng quá tàn
nhẫn của nó? Sao lại có quyền ép một người xấu số vào cái thế hiểm, giữa
một cái thiếu và một cái thừa, thiếu việc làm và thừa hình phạt? Đối
với những phần tử vì rủi ro mà chịu thiệt thòi nhất trong sự phân phối
của cải, đáng lẽ họ phải được chiếu cố nhất, lại đối xử với họ như thế
có phải là quá đáng không?

Các câu hỏi ấy đặt ra và giải quyết xong, anh xét xử và lên án xã hi.
Xã hội trở thành mối căm thù của anh.
Anh
cho xã hội phải chịu trách nhiệm về số phận anh đang chịu và định bụng
một ngày kia sẽ hỏi tội nó. Anh nhận định việc anh làm thiệt hại cho
người ta chẳng bắc đồng cân được với cái việc người ta làm thiệt hại cho
anh. Và anh kết luận rằng, cái án của anh, thật ra không phải là oan
uổng nhưng rõ ràng là bất công.

Giận
dữ thì có thể mất trí và vô lý. Người ta có thể nổi nóng sai. Nhưng khi
người ta căm phẫn thì xét cho cùng người ta đã nắm lẽ phải ở chỗ nào
đấy. Giăng VanGiăng cảm thấy căm phẫn.

Vả
lại, xã hội chỉ làm hại. Luôn luôn anh thấy xã hội chỉ có một bộ mặt
giận dữ là hình án. Bộ mặt ấy nó luôn luôn giương ra cho những kẻ nó đem
ra trừng trị! Còn mọi người chung quanh thì họ động đến anh là chỉ để
giày vò. Mỗi lần tiếp xúc với họ là một vố đau đớn. Từ nhỏ đến giờ, anh
chưa từng biết một lời nói thân mật, một cái nhìn thương mến, kể cả đến
của mẹ và chị trong nhà cũng thế. Hết đau khổ này đến đau khổ khác, dần d
n
anh tin quyết rằng đời là một cuộc chiến tranh và trong cuộc chiến
tranh ấy, anh là kẻ chiến bại. Anh chỉ còn một thứ vũ khí là lòng căm
thù. Anh quyết chí mài giũa nó thật s
c trong tù để khi ra thì đem theo.


nhà tù Tulông có một lớp học do một số tu sĩ mở để dạy những điều thường
thức cho trong tù ai có chí thì học. Anh cũng ở trong số người có chí
ấy. Bốn mươi tuổi anh mới vỡ lòng đi học, học đọc, học viết, học tính.
Anh nghiệm rằng học để mở mang trí não tức là rèn luyện thêm cho lòng
căm hờn của mình. Có những trường hợp, học thức và á
nh sáng lại nối giáo cho cái ác.

Nói ra thật là buồn! Sau khi lên án cái xã hội đã làm anh đau khổ, anh xét xử đến trời vì trời đã sinh ra cái xã hội kia.
Và anh cũng lên án trời nốt.
Ấy,
mười chín năm giam cầm và đày đọa, linh hồn anh vừa cao lên vừa rơi
xuống thấp là như thế! Ánh sáng lọt vào được bên này thì bóng tối cũng
lấn đến.

Như
ta đã thấy bản chất Giăng VanGiăng không phải xấu. Khi mới vào tù, anh
vẫn còn là con người tốt. Lên án xong xã hội, anh thấy mình trở thành
độc ác và lên án đến cả trời thì anh thấy mình trở thành vô đạo.

Đến đây khó mà không suy nghĩ một lát.
Bản chất con người có thể thay đổi tất và hẳn như vậy chăng? Con người Chúa
sinh ra lương thiện thì xã hội lại có thể làm cho độc ác chăng? Có thể
nào tâm hồn lại bị số phận uốn nắn lại từ đầu chí cuối và trở nên xấu
xa, khi gặp số phận xấu xa? Có thể nào trái tim lại biến dạng xấu xí và
mắc p
hải
những tật nan y do sức ép của một tai họa quá to, như cột sống bị gò
dưới một vòm nhà quá thấp? Có chăng trong tâm hồn của con người, nói
chung, trong tâm hồn của Giăng VanGiăng nói riêng, một tia lửa đầu tiên,
một yếu tố thiêng liêng, ở thế giới này thì không sao hủy hoại được,
còn ở thế giới bên kia thì bất tử. Tia lửa ấy, yếu tố ấy, điều thiện có
thể nuôi lớn lên, thổi đượm, thắp sáng, đốt cháy bùng lên và làm tỏa ánh
sáng rực rỡ ra chung quanh và điều dữ không đời nào có thể hoàn toàn
dập tắt được?

Thật là những vấn đ
nghiêm trọng và bí hiểm. Riêng vấn đề cuối cùng, thì bất kỳ nhà sinh lý
học nào chắc cũng phải trả lời không mà chẳng cần ngập ngừng gì cả, nếu
đã nhìn thấy ở Tulông, vào giờ nghỉ, đồng thời cũng là giờ mơ màng của
anh, chính Giăng VanGiăng ngồi trên tay quay của một tời đứng nào đó,
tay vòng trước ngực, một đầu dây xích nhét vào trong túi để nó khỏi kéo
lê. Những lúc ấy, anh tù khổ sai mặt mày ảm đạm, nghiêm nghị, tính yên
lặng và tư lự ấy, con người bị pháp luật hất ra ngoài xã hội ấy, nhìn
con người với cặp mắt giận dữ, con người bị đày đọa của xã hội văn minh
ấy nhìn trời một cách nghiêm khắc.

Nói
cho đúng và chúng tôi cũng không muốn giấu làm gì, nhà sinh lý học biết
quan sát chắc cũng thấy ở đó một nỗi khốn khổ không còn cứu vãn được,
ông ta cũng có thể thương xót cho con bệnh mà pháp luật đã làm nên nông
nỗi, những chắc hẳn là không hề thử nghĩ đến việc cứu chữa. Trong tâm
hồn này có những thương tích gì thì ông ta có hé thấy cũng làm lơ; và
giống như Đăngtơ đứng trước cửa địa ngục, ông ta chắc cũng xóa khỏi cuộc
đời ấy cái chữ mà ngón tay Chúa đã ghi trên trán mọi người: Hy vọng!

Trạng
thái ấy của tâm hồn Giăng VanGiăng, chúng tôi đã thử đem ra phân tích.
Không biết nó đã rõ với anh chưa, như chúng tôi đã cố làm cho nó rõ với
độc giả sách này? Tất cả những nhân tố làm nên nỗi khổ tinh thần của
anh, không biết anh có thấy rõ khi nó đã hình thành và trước đó đã thấy
rõ nó khi nó đang hình thành không? Con người cục cằn và vô học ấy có
nhận ra được rành rọt các ý nghĩ nối tiếp nhau trong tâm trí mình và
từng bước đưa mình đến những cảnh tượng thảm sâu, nó đã trở thành, từ
bao nhiêu năm nay, chân trời bên trong của trí óc? Anh có biết chăng tất
cả những gì xảy ra trong người anh và tất cả những gì đang xảy ra cựa
quậy trong đó? Những điều ấy, quả là chúng tôi không dám nói: và chính
là chúng tôi cũng không tin. Trong Giăng VanGiăng, ngu tối còn nhiều
quá, đến nỗi, trải qua nhiều tai ương là thế, mà không phải không thật
hiểu anh đang cảm thấy điều gì. Anh sống trong tối tăm, anh đau khổ
trong tối tăm, anh thù ghét trong tối tăm, có thể nói là anh thù ghét
cái gì ở đằng trước anh. Anh quen sống trong bóng đêm ấy, dò dẫm như một
người mù và như một kẻ đang mơ. Tuy nhiên, từng lúc, do từ ngoài đến
hay tự bản thân gây ra, anh rùng mình giận dữ, đau nhói lên bội phần.
Một ánh chớp mờ nhạt thoáng qua thắp sáng cả tâm hồn anh, làm cho những
vực sâu kỳ quái và hình dáng tối đen của số phận, hiện ra đột ngột khắp
nơi chung quanh anh, đàng trước cũng như đàng sau, trong một ánh sáng vô
cùng thê thảm.

Ánh chớp biến đi, bóng tối lại ập xuống, anh đang ở đâu đây? Anh không biết nữa.
Cái
lối trừng phạt, trong đó nổi bật sự tàn nhẫn, nghĩa là điều làm cho
người ta đần độn đi, chỉ đưa đến kết quả tệ hại là biến dần dần con
người thành thú rừng có khi thành thú dữ. Bao nhiêu lần Giăng VanGiăng
cố vượt ngục đi vượt ngục lại, đủ chứng tỏ cái tác hại lạ lùng của pháp
luật đối với tâm hồn con người. Mà có dịp anh sẽ còn thực hiện nữa việc
vượt ngục vô ích và điên cuồng ấy, chứ cũng không cần nghĩ đến có thành
công hay không, cũng không cần nhớ đến có những kinh nghiệm đau đớn của
lần trước. Như con chó sói thấy chuồng mở, anh lồng lộn chạy đi. Bản
năng bảo: “trốn đi!”. Nếu suy tính thì lương tri đã ngăn: “ở lại!”.
Nhưng, trước sự cám dỗ quá mạnh, lý trí đã bay mất và chỉ còn có bản
năng. Chỉ có con thú dữ trong người anh hành động. Và đến khi bị bắt
lại, các hình phạt nghiêm khắc mới chỉ làm cho nó thêm hung tợn.


một chi tiết không bỏ sót là sức anh rất khỏe, trong tù không ai bì kịp.
Lúc làm việc nặng, như dòng dây cáp, quay tời, anh làm khỏe bằng bốn
người. Có lúc anh kê vai nhấc bổng hay lấy lưng đỡ những vật nặng hàng
mấy tạ và khi cần thì thay thế cả cái dụng cụ gọi là cái kích, ngày xưa
gọi là cái oóc gơi, nhân đó có phố tên Môngoócgơi gần chợ lớn Paris. Bạn
bè gọi đùa anh là thằng Giăng Kích. Có lần người ta đang chữa cái bao
lơn nhà thị sảnh Tulông thì cái cột trụ đá chạm kiểu Puygiê rời ra và
xuýt đổ. Giăng VanGiăng có mặt ở đấy vội lấy vai đỡ chiếc cột, nhờ thế
mà thợ kịp đến chống lại.

Anh
khỏe đã như thế, anh nhanh nhẹn mềm dẻo lại còn hơn. Có những người tù
thường xuyên nghĩ đến vượt ngục, đã phối hợp sức mạnh với sự nhanh nhẹn
đến mức một khoa học thực sự, khoa học về gân cốt. Những con người muôn
đời
ước muốn có cái cánh như con ruồi, con chim ấy, ngày ngày họ vẫn đem ra
tập dượt cả một nghệ thuật huyền bí về leo trèo. Leo theo chiều thẳng
đứng, chân bám vào những nơi chỉ thấy hơi gợn một tí, thường chỉ là trò
chơi đối với Giăng VanGiăng. Chỉ có một góc tường mà lấy gâm lưng và bắp
chân, dùng khuỷu tay, gót chân bíu vào những chỗ vôi đá ráp rỗ, là anh
trèo lên đến gác ba như một trò quỉ thuật. Có khi anh cứ leo như thế lên
đến tận nóc ngục.

Anh
ít nói, không cười. Cả năm họa chăng chỉ một hai lần có cảm xúc gì thật
mãnh liệt mới làm anh bật lên tiếng cười, cái ghê rợn phảng phất như
của ma quỉ. Trông anh lúc nào cũng có vẻ đang nhìn một cái gì ghê rợn.

Đúng là tâm trí anh đang bận.
Qua
những nhận xét không lành mạnh của một bản chất dở dang không phát
triển và của một đầu óc lẩn quẩn, anh cảm thấy mơ hồ như có một vật gì
cổ quái đang đè lên người mình. Anh đang bò giữa vùng tranh tối tranh
sáng ấy và mỗi bận ngoái cổ lại, thử vươn tầm mắt lên cao, anh lại vừa
hoảng sợ vừa căm giận mà thấy tầng tầng lớp lớp đáng sợ nào là sự vật,
nào là luật pháp, thành kiến, nào là người và việc, tất cả đều dựng
sững, chồng chất đến tận mây xanh, chỗ lồi chỗ lõm một cách ghê rợn, tất
cả đều mơ hồ kh
ông rõ đường nét, nhng
khối to như núi làm anh hốt hoảng. Thật ra đó chỉ là cái tháp kỳ diệu
mà chúng ta gọi là văn minh. Đây đó trong cái mớ lúc nhúc, dị hình ấy,
lúc thì sát ngay bên cạnh, lúc thì ở tận nơi xa không với tới, anh lại
nhìn thấy một nhóm, một chi tiết nào đó sáng bật lên. Đó là tên lính gác
ngục với chiếc dùi cui, hoặc tên sen đầm với chiếc kiếm dài, rồi lại là
ông giám mục mũ cao và tận chót vót, như trong ánh hào quang chói lọi,
hoàng đế mũ áo chỉnh tề, rực rỡ. Anh có cảm tưởng là mọi thứ huy hoàng
xa xôi kia, không những không xua tan đêm tối mà còn làm cho nó thê
lương và mù mịt thêm. Pháp luật, thành kiến, sự việc, con người, đồ vật,
tất cả những thứ đó, đi đi lại lại trên đầu anh, theo sự vận động phức
tạp và bí ẩn của văn minh mà Chúa điều khiển lấy; tất cả bước đi và chà
đạp lên người anh, độc ác mà bình thản, lạnh lùng mà ác liệt, không sao
tả nổi. Như bị rơi xuống cảnh cùng cực nhất trên đời, như bị đày xuống
tầng sâu nhất của địa ngục để không còn mắt mà nhìn nữa, những kẻ bị
pháp luật đày đọa đều cảm thấy đè nặng lên đầu mình tất cả sức nặng của
cái xã hội loài người, nó quả thật vô cùng to lớn đối với ai đứng ngoài
mà nhìn và đối với người bị nó đè lên thì lại vô cùng kinh khủng.

Giăng VanGiăng suy tưởng trong tình trạng như thế. Sự suy tưởng của anh có thể có tính chất như thế nào?
Giá như hạt gạo trong cối xay mà biết suy nghĩ thì chắc nó sẽ nghĩ như anh đang nghĩ.
Tất
cả những cái đó, những hiện thực đầy bóng ma, những bóng mà đầy hiện
thực ấy, dần dần đã tạo nên trong anh một tâm trạng khó tả.

Đôi
khi, đang làm lao dịch, anh dừng tay suy nghĩ. Tâm trí anh vừa già dặn
vừa rối loạn hơn xưa, bỗng vùng lên tức tối. Tất cả cái gì đã xảy ra đến
cho anh đều vô nghĩa, tất cả sự vật chung quanh anh đều phi lý. Anh tự
nhủ: Thật chẳng khác gì chiêm bao. Anh nhìn tên gác ngục cách anh mấy
bước, trông nó như một b
óng ma; đột nhiên bóng ma nện anh một dùi cui.

Đối với anh, thiên nhiên trước mắt hình như không có nữa. Không có mặt trời, không có ngày hè đẹp, không có bầu trời rực
rỡ, không có buổi sớm mai tháng tư mát dịu, nói như thế tưởng cũng đúng
với anh thôi! Ở trong anh chỉ nhờ nhờ, một thứ ánh sáng xó buồng.

Cuối
cùng để tóm tắt những gì có thể tóm tắt được trong tất cả những điều đã
kể ra trên kia và nêu thành kết luận cụ thể, chúng ta chỉ cần nhận định
rằng, sau mười chín năm “hun đúc” trong tù, Giăng VanGiăng, cái anh thợ
xén cây hiền lành ở Phavơrôn, sau là tên trọng phạm đáng sợ ở Tulông,
đã trở thành kẻ có gan làm hai thứ việc xấu xa: một là những manh động
đột nhiên, mù quáng, không suy nghĩ, hoàn toàn do bản năng sai khiến,
như là để trả thù cho những đau khổ đã đày đọa mình; hai là có những
hành động xấu xa nghiêm trọng, có đắn đo cân nhắc, có trù tính, dựa vào
những ý nghĩ sai lầm mà đau khổ vừa qua đã gieo vào đầu óc mình. Những
việc trù tính của anh thường qua ba giai đoạn liên tiếp: lý luận, quyết
tâm và kiên trì, ba việc mà chỉ những tay can trường mới làm nổi. Sự bất
bình thường xuyên, nỗi chua xót trong lòng, niềm uất ức sâu xa vì các
thứ bất công phải cam chịu và sự phản ứng đối với cả những người tốt,
người vô tội hay người công minh, đều là động cơ của anh. Mỗi lần anh
suy nghĩ, anh đều xuất phát từ lòng căm thù luật pháp của loài người và
cuối cùng rồi cũng lại quay về đích đó. Nếu không có cái gì may mắn ngăn
lại thì rồi có lúc, lòng căm thù ấy sẽ biến ra lòng căm thù xã hội, căm
thù loài người, căm thù cả tạo hóa và thể hiện ra thành cái ý muốn mơ
hồ, dai dẳng và tàn bạo là làm hại, bất luận ai, quí hồ đó là một sinh
vật. Xem đó thì biết, không phải là không căn cứ mà giấy thông hành của
Giăng VanGiăng lại cho anh là người rất nguy hiểm.

Năm
này qua năm khác, tâm hồn ấy khô héo dần, chậm chậm nhưng không gì ngăn
nổi. Tim khô nên mắt cũng khô. Lúc ra khỏi nhà tù, tính ra suốt mười
chín năm trời, anh chưa hề rỏ một giọt nước mắt.



VIII


BIỂN CẢ VÀ ĐÊM TỐI


Có người rơi xuống biển!
Mặc! Tàu không dừng lại. Đang có gió, chiếc tàu vô tình phải tiếp tục hành trình định sẵn. Nó cứ lướt tới.
Người
kia mất hút rồi hiện ra, chìm xuống lại ngoi lên, kêu cứu, rồi giơ tay
vẫy, nhưng chẳng một ai nghe cả. Chiếc tàu rùng mình trước cơn bão, mọi
người đang ra tay kéo lái. Thủy thủ và hành khách không ai còn thấy
người đang bị sóng vùi nữa: cái đầu anh ta chỉ là một chấm nhỏ trên mặt
biển sóng to.

Anh
ta kêu lên mấy tiếng tuyệt vọng giữa khoảng biển trời thăm thẳm. Ôi!
Cánh buồm đang bỏ đi, sao mà như một bóng ma! Anh nhìn nó, nhìn nó điên
say. Nó lùi ra, mờ đi, nhỏ dần. Mới ban nãy anh còn ở trên ấy, anh còn
đứng trong hàng thủy thủ, anh đi đi lại lại trên boong với mọi người,
anh có phần không khí và ánh sáng của mình, anh đang sống. Bây giờ, thì
việc gì đã xảy ra? Anh đã trượt chân, ngã xuống và thế là hết.

Chung quanh anh bây giờ chỉ có làn nước dữ tợn. Dưới chân anh chỉ thấy cái gì chảy trôi và sụp đổ. Những ngọn gió xé rách
bươm, ghê tởm bao vây lấy anh, những cuộn nước xoáy lôi anh đi, mặt
biển tả tơi vùng vẫy quanh đầu anh, sóng nước như một đám người thô bỉ
đang nhổ vào mặt anh, nhiều ngõ ngách mập mờ như đang nuốt anh mất nửa
người; mỗi lần anh dấn xuống sâu, anh lại hé thấy những vực thẳm tối om;
bao nhiêu rong rêu xa lạ tóm lấy anh, quấn chân anh và lôi anh về với
nó; anh có cảm giác như mình cũng hóa thành vực sâu, cũng là bèo bọt;
sóng biển chuyền nhau dồi dập anh, anh hớp lấy đắng cay, đại dương hèn
nhát ra sức dìm anh, mênh mông đang đùa với cơn hấp hối của anh. Hình
như tất thảy sóng nước là hằn thù!

Tuy
vậy, anh vẫn vùng vẫy, cố thử tự vệ, cố thử đứng vững, cố hết sức để
bơi. Nhưng anh, anh chỉ là một sức lực đáng thương trong chốc lát đã
kiệt quệ, mà lại dám đương đầu với cái bất tận.

Chiếc tàu ở đâu rồi? Đằng kia, mờ mờ trong bóng tối nhàn nhạt ở chân trời.
Từng
cơn gió to nổi lên; tất cả các thứ bọt bèo đập xuống người anh. Anh
ngước mắt lên và chỉ thấy mây mù ảm đạm. Đang hấp hối, anh lại chứng
kiến biển cả lên cơn điên dại. Anh như bị cơn điên kia xử nhục hình.
Văng vẳng bên tai anh những tiếng động xa lạ đối với con người, những
tiếng động như đến từ bên kia trái đất, từ một cõi ngoài nào đó kinh
khủng làm sao.

Trên
mây cao có nhiều chim cũng như thường có thiên thần trên những khốn khó
của con người, nhưng chim và thần có thể giúp gì được cho anh? Những
thứ đó bay, lượn và ca hát, còn anh, anh rên rỉ sắp lìa đời.

Anh cảm thấy mình như bị liệm trong cả hai thứ vô biên: biển cả và trời cao; biển là mồ, trời là vải liệm.
Đêm
đến dần. Anh bơi không biết bao nhiêu giờ rồi, sức anh đã cạn. Con tàu,
cái vật xa xôi trên đó có người, đã khuất bóng. Chỉ còn một mình anh
trong hố sâu thăm thẳm của hoàng hôn. Anh chìm xuống, anh lấy gân, anh
quằn quại, anh nghe dưới chân những đợt sóng cổ quái của vô hình; anh
cất tiếng kêu.

Chẳng còn người. Vậy Chúa ở đâu?
Anh kêu. Ai cứu tôi! Ai cứu tôi với! Anh kêu mãi.
Chân trời vẳng lặng. Trời cao vẳng lặng.
Anh
van vỉ quãng rộng, sóng nước, rong rêu, ghềnh đá: tất cả đều câm điếc.
Anh van xin bão tố, nhưng bảo tố vô tình chỉ tuân lệnh vô biên.

Chung
quanh anh chỉ còn bóng tối, sương mù, cô quạnh; chỉ còn tiếng sóng vô
tình gào thét và mặt nước hung tàn không ngớt nhăn nheo mãi mãi. Trong
người anh chỉ còn ghê rợn và mệt mỏi. Dưới chân anh chỉ còn chìm đắm.
Không còn chỗ bám víu nữa. Anh nghĩ đến bước phiêu lưu tăm tối của thây
ma trong bóng đêm vô hạn. Cái lạnh không bờ làm anh tê dại. Hai bàn tay
anh co quắp nắm lại và chỉ vơ được hư không. Gió, mây, bão tố, trăng sao
vô dụng! Biết làm thế nào? Người tuyệt vọng đành buông xuôi, kẻ chán
chường đành tìm cái chết, anh mặc cho số phận lôi đi, anh buông tay và
thế là mãi mãi đắm chìm trong những hố sâu thảm đạm.

Ôi!
Bước đi không gì cản được của xã hội loài người! Giữa đường có bao
nhiêu người, bao nhiêu linh hồn bị bỏ rơi! Một đại dương, để đón mọi cái
mà luật pháp gạt ra! Không còn một sự cứu vớt nào, đáng sợ làm sao!
Chao ôi! Cái chết tinh thần!

Biển
cả ở đây là đêm tối cay nghiệt của xã hội, nơi pháp luật vứt bỏ những
nạn nhân của mình. Biển cả, đó là sự khốn khổ mênh mông.

Linh hồn, trôi dạt trong vực sâu ấy, có thể trở nên một thây ma. Ai là kẻ làm cho nó sống lại?

IX


LẠI GẶP BẤT CÔNG


Mãn hạn tù, khi nghe bên tai mấy tiếng lạ lùng: Mày được tự do!
Thật là những phút không ngờ, khó tả đối với Giăng VanGiăng. Một tia
sáng chói lòa, thứ ánh sáng thật sự của người sống đột nhiên chiếu vào
tâm hồn anh. Khón nỗi, chẳng bao lâu tia sáng ấy lại mờ đi. Ban đầu
Giăng VanGiăng quả thực đã quáng mắt khi nghĩ mình được tự do. Anh tin
tưởng một cuộc đời mới. Nhưng anh lại thấy ngay giá trị của kẻ mang tờ
giấy thông hành vàng.

Ngay
từ phút đầu ấy đã có bao nỗi chua cay! Anh đã nhẩm tính số tiền để dành
suốt thời gian ở tù thế nào cũng phải đến một trăm bảy mươi mốt
phơrăng. Phải nói cho đúng là tính như thế anh không khấu trừ những ngày
chủ nhật và ngày lễ bắt buộc phải nghỉ, mười chín năm tức phải trừ mất
đi ngót hai mươi bốn quan. Dù sao, số tiền ấy đã bị khấu đi nhiều khoản
thu linh tinh, chỉ cò một trăm linh chín phơrăng mời lăm xu, lúc anh ra
tù người ta đem tính trả cho anh.

Anh chẳng hiểu tại sao lại chỉ còn có thế và đinh ninh là mình bị ngắt ngọn, hay nói toạc ra, bị đánh cắp.
Hôm
sau ngày được tha, đến Gơrat, anh thấy trước cửa xưởng cất nước hoa cam
người ta đang dỡ những bao hàng to, anh lại xin làm giúp. Việc đang
cần, người ta đồng
ý ngay.
Anh bắt tay vào việc. Anh thông minh, người khỏe và lanh lợi, lại làm
hết sức nên người chủ ra dáng bằng lòng. Một người lính sen đầm đi ngang
qua, thấy anh đang làm, để
ý,
dừng lại hỏi giấy. Xong lại tiếp tục làm việc. Trước đó, anh có hỏi thử
đám phu làm như thế tiền công mỗi ngày được bao nhiêu, họ cho anh biết
là ba mươi xu. Tối đến, anh đến tìm người chủ xưởng để xin lĩnh tiền
công vì hôm sau phải lên đường sớm. Hắn chẳng nói năng gì, xỉa cho anh
hai mươi lăm xu. Anh đòi thêm, hắn bảo: Mày mà được bấy nhiêu là tốt quá rồi! Anh nài nữa. Hắn lườm và bảo: Liệu không lại vào nhà đá!

Một lần nữa, anh cho mình đã bị đánh cắp.
Xã hội, Nhà nước, bớt tiền của anh là ăn cắp mẻ to. Bây giờ đến lượt cá nhân ăn cắp của anh từng mẻ nhỏ.
Phóng thích chưa phải là giải thoát và ra tù chứ không ra khỏi hình phạt.
Đó, ở Gơrat, anh đã gặp câu chuyện như thế. Còn đến Đinhơ người ta đối xử với anh như thế nào, chúng ta đã biết.


X


THỨC DẬY


Chuông đồng hồ nhà thờ đánh hai giờ, Giăng VanGiăng thức giấc dậy.
Cái
giường êm quá đã làm anh tỉnh dậy. Đã gần hai mươi năm anh không hề
được nằm giường, nên, tuy không thay quần áo, cái cảm giác quá lạ làm
anh không ngủ yên được.

Anh đã ngủ quên được hơn bốn tiếng đồng hồ. Bao nhiêu mệt mỏi như đã trút sạch. Vả, anh cũng quen chẳng nghỉ ngơi nhiều.
Anh mở mắt, nhìn một lúc lâu trong bóng tối quanh mình rồi nhắm mắt ngủ lại.
Ban
ngày cảm xúc miên man, tâm trí nhiều điều lo nghĩ, đến đêm ngủ thiếp đi
thì dễ dàng, chứ đã thức giấc thì khó mà ngủ lại được. Giăng VanGiăng
đêm ấy có thế thật.

Anh không sao nhắm mắt trở lại được, đâm ra nghĩ vơ vẩn.
Đầu
óc như mờ mịt, rối bời, ý nghĩ qua lại chằng chịt. Chuyện xa, chuyện
gần đều như lềnh bềnh lộn xộn, giao nhau, lẫn lộn với nhau, khi thì mờ
nhạt khi thì hiện to, rồi bỗng nhiên vụt biến đi như chìm suống dưới làn
nước bùn đang xáo động. Nhiều ý nghĩ hiện ra, nhưng chỉ có một ý thường
xuyên quấn quít trong óc anh, lấn át tất cả: anh nghĩ về bộ đồ ăn bằng
bạc và chiếc môi to tướng của bà Magơloa bày trên bàn ăn, nó đã làm cho
anh để ý lúc đầu hôm.

Bộ
đồ bạc ấy như ám ảnh anh. Nó ở ngay kia thôi, cách có mấy bước. Lúc từ
buồng bên sang đây, anh thấy bà ở già cất nó vào chỗ ô ở đầu giường. Anh
đã chú ý đến chỗ ô tường đó. Ngay phía bên phải chỗ cửa từ buồng ăn
sang. Bộ đồ bạc, rõ là bằng bạc ròng. Mà lại là bạc cũ. Kể cả chiếc môi,
có thể bán ít ra là vài trăm phơrăng. Gấp đôi món tiền anh làm trong
mười chín năm trời. Thật ra thì anh có thể kiếm được nhiều hơn thế nếu
nhà nước không ăn cắp của anh.

Anh
nghĩ tới nghĩ lui, giằng co suốt giờ. Cũng có chút ít do dự và tranh
đấu bản thân. Bỗng đồng hồ đổ ba tiếng. Anh mở choàng mắt, ngồi nhổm
dậy, với tay sờ cái ba lô quẳng trong xó, rồi thả hai chân xuống đ
t,
ngồi nhổm lên giường lúc nào không biết. Anh ngồi yên như thế một lúc
lâu, trong trí suy nghĩ vẩn vơ. Ai thấy anh bấy giờ một mình ngồi thức
trong đêm tối khi cả nhà ngủ yên, chắc phải lấy làm ghê rợn. Bỗng anh
cúi xuống, tháo giầy đặt nhẹ lên giường, rồi lại ngồi thừ ra nghĩ ngợi.

Việc
xấu xa ấy lại bắt anh suy nghĩ miên man. Bao nhiêu ý nghĩ đã nói trên
kia lại xáo trộn cả tâm trí, khi ẩn khi hiện, như đắn đo, cân nhắc. Và
rồi chẳng biết vì sao, hình ảnh thằng Brêvơ, một bạn tù anh đã biết ở
nhà lao với cái quần có độc một dây treo đan bằng sợi, lại đến với anh,
lần khân một cách vô cớ như lệ thường khi người ta mơ màng. Hình ảnh các
ô vuông trên cái dây treo quần ấy cứ lởn vởn mãi trong óc.

Không
có đồng hồ gõ một tiếng báo khắc hay báo nửa giờ gì đó, có lẽ anh sẽ
ngồi mãi như thế cho đến sáng. Hình như tiếng chuông ấy thúc giục: cương
quyết đi!

Anh
đứng dậy, ngần ngại một lát và nghe ngóng: trong nhà im phăng phắc. Anh
rón rén bước lại chỗ cửa sổ anh thoáng thấy hé mở. Trời không tối lắm.
Từng đám mây lớn bay theo gió trên không, lúc che, lúc để lộ vừng trăng
rằm. Cảnh vật bên ngoài lúc sáng lúc tối; còn trong nhà thì như một thứ
hoàng hôn. Ánh sáng hoàng hôn. Ánh sáng hoàng hôn ấy không đều do mây
lúc ẩn lúc hiện, nhưng cũng đủ để nhận được lối đi. Nó giống như thứ ánh
sáng lờ mờ ở trong một cái hầm mà trước cửa thông hơi có người qua lại.
Ra đến cửa sổ, Giăng VanGiăng chú ý nhận xét. Cửa không chấn
song,
quay ra vườn và theo thói quen ở địa phương, chỉ cài cái then nhỏ. Anh
mở ra, nhưng vì một luồng khí lạnh ùa vào trong phòng, anh vội đóng lại
ngay. Anh nhìn ra vườn bằng cặp mắt xem xét hơn là nhìn ngó. Quanh vườn,
một bức tường thấp quét vôi trắng trèo qua rất dễ. Bên kia tường, trông
rõ những ngọn cây cách khoảng đều nhau. Rõ ràng bên này là vườn, còn
bên kia là đường phố hoặc một ngõ con có trồng cây.

Nhìn
xong, anh quả quyết bước lại chỗ giường nằm, xách ba lô lên, mở ra, móc
lấy ra một vật gì để lên giường, nhét đôi giày vào túi, buộc ba lô lại
đeo lên vai, chụp cái mũ lưỡi trai lên đầu và kéo sụp xuống tận mắt. Anh
lần mò tìm cây gậy đem dựng ở cạnh cửa sổ rồi trở lại chỗ giường nằm
nhặt lấy cái vật kia: một cái gì giống như một thanh sắt ngắn, một đầu
vạt nhọn như cái cọc.

Trong tối không làm sao nhận được thanh sắt ấy rèn ra để làm gì. Một cái đòn bẩy chăng? Hay là một cái dùi cui?
Ra ngoài sáng thì có thể nhận rõ đó chỉ là cái chân đèn của phu mỏ. Thời y,
thỉnh thoảng người ta sai tù phạm đi lấy đá trên các quả đồi cao quanh
Tulông, nên họ cũng thường có trong tay những dụng cụ phu mỏ. Cái chân
đèn đúc bằng sắt đặc, đầu dưới nhọn để có thể đóng v
ào đá được.

Tay
phải cầm thanh sắt, anh nín thở, rón rén đi ra phía cửa phòng ngủ ông
giám mục bên cạnh. Cửa mở hé, ông giám mục lúc đi ngủ đã không khóa cửa.





Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:24 pm

XI



HÀNH ĐỘNG



Giăng VanGiăng nghe ngóng. Yên lặng như tờ.
Anh
lấy đầu ngón tay đẩy khẽ cánh cửa, nhẹ nhàng, lén lút và ngại ngùng như
con mèo muốn tìm lối vào. Cánh cửa êm ái và lặng lẽ rộng thêm một tí.

Chờ một lát, anh lại đẩy thêm cái nữa, lần này mạnh tay hơn.
Cửa lại lặng lẽ mở rộng thêm, đủ cho anh lách mình qua. Nhưng gần đó lại có cái bàn con chìa ra làm vướng lối đi.
Giăng VanGiăng thấy khó khăn. Phải cố làm cho cửa mở rộng hơn nữa.
Anh quả quyết, đẩy cánh cửa lần nữa mạnh hơn hai lần trước. Chiếc bản lề khô dầu tự nhiên kẹt lên một tiếng dài trong đêm tối.
Giăng VanGiăng giật nẩy mình. Tiếng kẹt cửa vang vào tai anh nghe to và ghê rợn như tiếng kèn hiệu lệnh ngày phán xét cuối cùng.
Trong
phút đầu tiên ấy mọi sự đều phóng đại một cách kỳ quái; anh tưởng chừng
như chiếc bản lề vừa tỉnh dậy và đột nhiên do một sức sống đáng sợ,
đang sủa lên như chó để báo có trộm vào, đánh thức mọi người.

Anh
đứng sững lại, run rẩy, hoảng hốt, bàn chân đang nhón bỗng xịu xuống
đất. Mạch máu hai bên thái dương giật như búa bổ, ngực th

phì phò như tiếng gió lùa trong hang núi. Anh đinh ninh thế nào tiếng
rít ghê gớm của cái bản lề giận dữ ấy cũng sẽ làm rung chuyển cả nhà cửa
như một trận động đất: cánh cửa bị đẩy đã kêu lên để báo động, ông già
sắp trở dậy, hai bà già sắp hô hoán lên, xóm giềng sẽ đến tiếp cứu; chỉ
mươi mười lăm phút sau, cả thành phố sẽ náo động, cảnh sát sẽ được huy
động. Trong giây lát, anh thấy mình nguy đến nơi.

Anh đứng trơ ra như pho tượng, không dám cử động.
Mấy
phút trôi qua. Cánh cửa đã mở toang ra rồi. Anh liều nhìn vào trong
phòng. Vẫn yên lặng cả. Anh lắng tai nghe. Không có tiếng cựa quậy.
Tiếng kẹt cửa không làm ai thức giấc cả.

Cơn
nguy hiểm đầu tiên đã qua, trong lòng anh còn hồi hộp lạ thường. Nhưng
anh không lùi. Ngay những lúc nguy ngập nhất, anh có bao giờ chịu lùi
đâu. Anh chỉ tính làm thế nào cho chóng xong. Anh tiến lên một bước, vào
hẳn trong phòng.

Trong
phòng im lặng như tờ. Chỉ thấy rải rác chỗ này chỗ kia những hình lờ mờ
không rõ. Ban ngày thì rõ đó là mớ giấy bày la liệt trên bàn, những pho
sách lớn mở rộng, những chồng sách dày xếp trên chiếc ghế đẩu, chiếc
ghế bành chất đầy quần áo, chiếc ghế nguyện, nhưng lúc này chỉ thấy toàn
là những kh
ỏang tôi tối và những chỗ trăng trắng. Giăng VanGiăng lần từng bước một, giữ gìn để khỏi đụng vào đồ đạc. Anh nghe rõ hơi thở đều đặn và bình thản của ông giám mục đang ngủ ở cuối phòng.

Bỗng anh dừng lại. Không ngờ anh đã đến sát cạnh giường nhanh đến thế.
Nhiều
khi tạo hóa khéo đem những hiện tượng và cảnh tượng thiên nhiên xen vào
công việc của người đời rất đúng lúc, như hiểu biết ý người một cách
thâm trầm và như có ý muốn làm cho người ta phải suy nghĩ. Đã nửa giờ
nay, một đám mây to che khắp trời. Vừa lúc Giăng VanGiăng đến trước
giường, đám mây như c
ó
dụng ý trước, bỗng hé ra một quãng trống. Ánh trăng xuyên qua cửa sổ,
đột nhiên chiếu thẳng vào khuôn mặt trắng của ông giám mục. Ông đang ngủ
yên giấc. Đêm ở miền núi trời lạnh nên cả người ông gần như quấn trong
chiếc áo len màu nâu dài tay. Đầu ông ngửa trên gối với một dáng điệu
nghỉ ngơi thoải mái. Bàn tay có chiếc nhẫn, cái bàn tay phúc đức ấy, lại
bỏ thõng ra ngoài. Vẻ mặt có cái gì khoan khoái, tin tưởng và vui đạo
làm cho sáng hẳn lên. Trông vào thấy có cái gì tươi hơn một nụ cười, gần
như là một vẻ vui thích rạng rỡ. Vừng trán lại như phản chiếu một thứ
ánh sáng vô hình khó tả. Rõ ràng là linh hồn người chính trực trong giấc
ngủ được chiêm ngưỡng một cảnh trời huyền bí.

Một tia sáng của cảnh trời ấy hiện ra ở nét mặt ông giám mục.
Tia sáng ấy đồng thời cũng là hào quang tỏa từ trong người ông ra chính vì cảnh trời ấy là ở lòng ông, nó là lương tâm của ông.
Lúc
ánh trăng như hòa hợp với thứ ánh sáng bên trong ấy, toàn thân ông giám
mục đang ngủ yên vụt hiện ra như trong một vùng hào quang. Không chói
sáng nhưng mờ mờ, êm dịu vô cùng. Vừng trăng trên cao, cảnh vật im nghỉ,
khu vườn không một rung động, ngôi nhà yên tĩnh, lại vào giờ ấy, lúc
ấy, sự tĩnh mịch ấy, tất cả đều như thêm vào giấc ngủ đáng tôn kính của
vị hiền triết kia một cái gì trang nghiêm khó nói và làm cho mớ tóc bạc
phơ, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt tràn đầy hy vọng và tin yêu, cả cái
đầu của bậc già nua đang ngủ giấc ngủ yên lành của trẻ con, như rực lên
trong một vòng ánh s
ánguy nghi và trong suốt.

Trong con người ông quả như có cái uy nghi của thần linh mà chính ông không biết.
Giăng
VanGiăng vẫn đứng trong bóng tối, tay cầm chiếc chân đèn sứt, sững sờ,
bàng hoàng trước cảnh ông già sáng rỡ ấy. Chưa bao giờ anh trông thấy
một con người như thế. Nét mặt tin cậy ấy làm anh khiếp sợ. Với tâm
trạng bối rối và lo sợ, sắp sa ngã vào một hành động tội lỗi, anh lại
chiêm ngưỡng giấc ngủ của một bậc chính nhân, tưởng trong thế giới tinh
thần, chưa c
ó cảnh tượng nào lớn lao bằng!

Giữa
nơi thanh vắng và bên cạnh một kẻ như anh, giấc ngủ ấy có cái gì cao
cả, anh chưa hiểu rõ được, những cảm thấy một cách mãnh liệt.

Không ai biết được tâm trạng anh lúc đó như thế nào. Cả anh cũng vậy. Phải tưởng tượng một cái gì phũ phàng nhất đi
với một cái gì dịu dàng nhất, mới hình dung được tâm trạng ấy. Nhìn vào
nét mặt anh thì không nhận thấy gì có thể nói chắc được. Một thứ kinh
ngạc lơ láo. Anh đứng sững mà nhìn, thế thôi. Nhưng anh đang nghĩ gì?
Khó mà đoán ra được. Những thứ cảm xúc ấy bản chất là cảm xúc gì?

Mắt
anh không rời hình ảnh ông giám mục già. Cử chỉ và nét mặt để lộ rõ một
sự rụt rè lạ lùng. Có thể nói là anh đang lưỡng lự trước hai vực thẳm,
một nơi làm người ta sa ngã và một nơi giúp người ta thoát nạn. Hình như
anh đương sẵn sàng hoặc đập vỡ sọ ông già hoặc ôm lấy tay mà hôn.

Một
lúc sau, anh từ từ giơ tay trái lên ngang trán và giở mũ ra, rồi lại bỏ
cánh tay xuống. Anh lại đứng yên, tay trái cầm mũ, tay phải cầm dùi
cui, tóc lởm chởm dựng ngược trên cái đầu dữ tợn, mắt ngắm sững ông già.

Ông
giám mục vẫn cứ ngủ thiêm thiếp trước cái nhìn đáng sợ ấy. Ánh trăng
soi mờ mờ trên cây thánh giá trên lò sưởi. Người ta có cảm giác như
tượng Chúa đang dang tay đón lấy cả hai người, để ban phúc cho người này
và xá tội cho kẻ kia.

Bỗng
Giăng VanGiăng chụp mũ lên đầu, rảo bước lần theo cạnh giường, không
nhìn ông giám mục, đến thẳng chỗ ô tường mờ mờ ở đầu kia; anh giơ cái
chân đèn sắt lên để nạy khóa; chìa khóa cắm ngay trong ổ; anh mở ra,
thấy ngay cái giỏ đựng đồ bạc; anh bê ra, bước vội qua phòng, chẳng cần
giữ gìn, không sợ tiếng động, lách ra khỏi cửa, bỏ bộ đồ bạc vào ba lô,
vứt cái giỏ đi, chạy qua vườn, vượt qua tường như cọp, rồi cắm đầu chạy
.

XII


ÔNG GIÁM MỤC LÀM VIỆC


Sáng hôm sau, mặt trời vừa mọc, ông giám mục đã ra đi bách bộ ngoài vườn. Bà Magơloa hớt hải chạy đến:
- Đức Cha, thưa Đức Cha, Đức Cha có biết cái giỏ đồ bạc ở đâu không?
- Có.
- Lạy Chúa! May quá! Con đang không biết nó chạy đi đâu.
Ông giám mục vừa nhặt được cái giỏ ở trên luống hoa. Ông đưa cho bà.
- Giỏ đây.
- Ô hay! – bà Magơloa kêu – Cái giỏ không! Thế còn bộ đồ bạc?
- À, bà tìm bộ đồ bạc à? Thế thì tôi không biết.
- Trời đất ơi! Bị mất trộm hết rồi! Cái thằng tối hôm qua nó lấy rồi!

thoáng một cái, bà chạy vụt vào phòng nguyện, đến chỗ giường khách, rồi
đảo trở ra. Ông giám mục đang cúi xuống bồn hoa nhìn mấy cây hoa bị cái
giỏ quăng phải đè gẫy.
Nghe tiếng bà Magơloa kêu, ông ngẩng người lên.

- Thưa Đức Cha, nó đi rồi! Đồ đạc bị mất trộm rồi!
Vừa kêu lên như thế, bà lại nhìn thấy ở góc vườn có vết người mới trèo qua tường làm lở cả bờ vôi.
- Đây này! Nó trèo qua lối này đây. Nó nhảy ra lối phố Cơsơphilê! À, quân khốn kiếp! Nó lấy trộm bộ đồ bạc của nhà ta còn gì.
Ông giám mục yên lặng một lát, ngẩng nhìn bà Magơloa một cách nghiêm trang và ôn tồn bảo:
- Nhưng này, bộ đồ bạc ấy có phải là của nhà ta không đã?
Bà Magơloa ngẩn người ra. Hai người đứng lặng yên một lát, ông giám mục lại nói tiếp:
-
Bà Magơloa này, lâu nay ta cứ giữ mãi bộ đồ bạc ấy là sai đấy. Nó là của
kẻ khó. Mà người ấy là hạng người nào? Chính là một kẻ khó mà.

-
Chao ôi! Lạy Chúa! Tôi với cô Baptistin thì nói làm gì. Chúng tôi thế
nào cũng xong. Nhưng còn Đức Cha: Từ nay thì Đức Cha ăn bằng gì?

Ông giám mục nhìn bà, dáng ngạc nhiên:
- Ô hay! Thế không có thìa nĩa thiếc à?
Bà Magơloa so vai:
- Thiếc ăn có mùi tanh.
- Thế thì dùng đồ sắt.
Bà Magơloa nhăn mặt lại:
- Sắt có vị han.
Một
lúc sau, ông ăn sáng ở ngay cái bàn chỗ Giăng VanGiăng ngồi hôm trước.
Vừa ăn, ông vừa vui vẻ nói chuyện. Cô em trầm tĩnh ngồi nghe và bà
Magơloa thì lẩm bẩm càu nhàu một mình. Ông bảo: chấm miếng bánh vào sữa
thì cần gì phải thìa nĩa, dù là bằng gỗ đi nữa.

Bà Magơloa vừa đi đi lại lại vừa lẩm bẩm:
-
Đời thưở nhà ai lại đi tiếp rước một thằng như thế vào nhà bao giờ! Lại
còn cho nó nằm ngay bên cạnh phòng mình. Phúc đức làm sao nó lại chỉ mới
lấy của mà thôi! Trời ơi là trời! Cứ nghĩ đến mà rùng mình!

Hai anh em ăn xong sắp đứng dậy thì có người gõ cửa. Ông giám mục bảo:
- Cứ vào.
Cửa
mở. Một tốp người kỳ quặc hùng hổ kéo nhau vào. Ba người túm cổ một
người. Ba người ấy là lính sen đầm; người kia là Giăng VanGiăng.

Một người đội, ý chừng chỉ huy cả bọn, đứng gần ở cửa. Y bước vào, tiến đến gần ông giám mục, giơ tay chào:
- Bẩm Đức Cha…
Nghe thấy thế, Giăng VanGiăng đương lầm lì và có vẻ thất vọng, ngẩng lên nhìn, kinh hoàng. Anh lẩm bẩm:
- Đức Cha à! Vậy ra không phải là ông cụ xứ…
Một tên lính quát:
- Im! Đây là Đức giám mục.
Lúc ấy, ông giám mục mặc dầu cao tuổi cũng cố bước nhanh tới bên anh. Ông nhìn vào Giăng VanGiăng:
-
A, anh đấy à! Thấy anh tôi mừng làm sao! Nhưng này, tôi còn cho anh cả
đôi chân đèn nữa kia mà, cũng bằng bạc đấy, có thể bán được hai trăm
phơrăng. Sao anh lại không mang đi một thể với bộ đồ ăn?

Giăng
VanGiăng giương con mắt nhìn con người đáng kính ấy. Vẻ mặt anh bây giờ
tưởng không còn ngôn ngữ nào có thể tả rõ được. Viên đội nói:

-
Bẩm Đức Cha, hóa ra tên này nói thật? Chúng tôi gặp nó đang đi như có ý
chạy trốn. Chúng tôi bắt giữ lại để khám thì thấy có bộ đồ bạc này…

Ông giám mục cười, ngắt lời y:
-
Và anh ấy nói rằng đêm hôm qua anh ấy ngủ ở nhà một ông cố đạo già và
ông ấy đã cho anh chứ gì? Tôi đoán ra thế. Rồi các ông giải anh ta đến
đây phải không? Lầm rồi.

- Nếu vậy, chúng tôi có thể tha cho hắn đi chứ?
- Hẳn rồi.
Bọn lính buông Giăng VanGiăng ra. Anh lùi lại ngơ ngác như người mơ ngủ, lắp bắp nói không ra tiếng:
- Tha cho tôi thật à?
Một người lính nói:
- Phải, tha cho mày đấy, mày không nghe thấy à?
Ông giám mục lại nói:
- Này, anh cầm nốt hai cây chân đèn rồi hãy đi nhé! Đèn đây.
Ông
đến chỗ lò sưởi, lấy hai cây đèn và đem lại cho Giăng VanGiăng. Hai
người đàn bà lặng yên đứng nhìn không nói không rằng, không có một cử
chỉ nào muốn ngăn trở ông giám mục.

Giăng VanGiăng run bần bật. Như cái máy, anh giơ tay cầm lấy đôi đèn, mặt mày ngơ ngác. Ông giám mục nói:
-
Thôi, chúc anh lên đường bình yên. Nhân thể, lần sau anh có trở lại đây,
nhớ không cần phải qua phía vườn. Cứ cửa lối qua phố mà đi. Ngày đêm
lúc nào ra vào cũng được, cửa chỉ cài có cái then thôi.

Rồi ông quay về phía bọn cảnh sát:
- Thôi, các ông có thể về được rồi.
Bọn lính đi ra.
Giăng VanGiăng như người sắp ngất.
Ông giám mục lại gần, khẽ bảo:
- Đừng quên, đừng bao giờ quên rằng anh đã hứa với ta sẽ dùng chỗ tiền này để trở thành con người lương thiện nhé.
Giăng
VanGiăng không nhớ có hứa với ông giám mục điều gì hay không. Anh cứ
đứng ngây người ra. Ông giám mục đã nhấn mạnh vào câu mình nói. Bây giờ
bằng một giọng thật trang nghiêm, ông lại nói thêm:

-
Giăng VanGiăng, người anh em của tôi ơi, từ nay anh không còn là kẻ ác
nữa, anh thuộc về phía người lương thiện rồi. Linh hồn của anh, ta đã
mua đây, ta đem nó ra khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem
dâng nó cho Chúa.

d

XIII


BÉ GIECVE


Giăng VanGiăng vội vàng rời bỏ Đinhơ
như một tên tù sổng. Anh đi về phía cánh đồng, gặp đường ngang ngõ tắt
nào cũng đi bừa theo, không biết có lúc đã lộn trở lại con đường vừa mới
đi qua. Anh cứ lang thang như thế suốt cả buổi mai, chẳng ăn uống gì mà
cũng không thấy đói. Nhiều cảm xúc mới làm anh xao xuyến cả tâm hồn.
Anh thấy mình bực tức vô cùng, chẳng biết là giận ai. Anh cũng không
hiểu là mình xúc động hay cả hổ thẹn. Có lúc anh thấy lòng mình dịu
xuống một cách kỳ lạ và cố chống lại bằng cách nghĩ đến gần hai mươi năm
bị đày ải để cho lòng lại rắn lên. Tâm trạng ấy làm cho anh mệt nhọc.
Anh lo lắng thấy cái bình tĩnh mà cảnh tù tội bất công đã đem lại cho
tâm hồn anh lâu nay, cái bình tĩnh ghê sợ ấy đến nay đã bị lay chuyển.
Anh tự hỏi rồi đây cái gì sẽ thay vào đấy? Có lúc nghĩ, giá cứ nằm trong
tù với bọn cảnh sát lại hóa hay chứ không thích sự việc lại xảy ra như
thế. Tuy tiết trời đã về thu, song ở các hàng rào vẫn còn lác đác đôi ba
bóng hoa nở chậm, thoang thoảng hương thơm, khiến lúc đi ngang qua, anh
lại nhớ đến những ngày thơ ấu. Các kỷ niệm xa xưa ấy làm anh rất khó
chịu vì đã lâu lắm anh không hề nhớ tới nữa.

Suốt cả ngày hôm ấy, những ý nghĩ miên man, khó tả như vậy cứ chồng chất mãi trong đầu óc anh.
Mặt
trời sắp lặn. Bóng mỗi hòn sỏi nhỏ cũng in dài trên mặt đường. Giăng
VanGiăng ngồi sau một bụi cây, giữa cánh đồng rộng màu hung, bốn bề vắng
ngắt. Đằng xa về phía chân trời chỉ trơ trọi có dãy núi Anpơ. Tuyệt
nhiên chẳng thấy gác chuông nào của một làng ở xa. Anh đã đi khỏi
Đinhơ
có đến ba dặm. Một con đường xuyên qua cánh đồng đi ngang sát bên bụi
cây. Vẻ mặt trầm ngâm làm cho bộ áo quần tả tơi của anh thêm ghê rợn, ai
trông thấy cũng phải khiếp. Giữa lúc ấy có tiếng nói cười vui vẻ vang
đến.

Anh
quay đầu nhìn ra phía đường. Một thằng bé mười tuổi, người xứ Xavoa,
vừa đi vừa hát, bên sườn lủng lẳng chiếc đàn con và sau lưng đeo cái hòm
gỗ nhỏ. Những đứa trẻ rách rưới nhưng hiền lành và vui tính như thế
người ta thấy lang thang kiếm ăn từ vùng này đến vùng khác là thường.

Thằng
bé hát luôn miệng, thỉnh thoảng lại dừng lại, tung mấy đồng tiền trong
tay lên chơi chuyền. Trong số tiền, có lẽ tất cả vốn liếng của thằng bé,
có một đồng hào bốn mươi xu.


đứng lại bên bụi cây, nhưng mãi chơi chuyền không thấy Giăng VanGiăng.
Mọi lần nó khéo bắt, lần này đồng hào bốn mươi xu nẩy ra ngoài và lăn
vào bụi cây đến tận chỗ Giăng VanGiăng ngồi.

Giăng VanGiăng đặt chân lên trên.
Nhưng
thằng bé nhìn theo đồng tiền lăn, đã trông thấy. Nó không tỏ vễ gì ngạc
nhiên, đến thẳng chỗ anh ngồi. Bốn bề cảnh vật thật là hoang vắng. Nhìn
xa đến chân trời cũng không thấy bóng người trên cánh đồng hay trên con
đường nhỏ. Chỉ văng vẳng có tiếng một đàn chim bay ngang trời cao tít.

Thằng
bé quay lưng lại phía mặt trời. Ánh nắng chiều gieo từng sợi vàng lên
mái tóc và phủ lên khuôn mặt dữ tợn của Giăng VanGiăng một màu đỏ bầm
như máu. Với vẻ tin cậy của một đứa trẻ thật thà và ngây thơ, thằng bé
kêu lên:

- Ông ơi! Đồng hào của tôi đâu?
Giăng VanGiăng hỏi lại nó:
- Mày tên là gì?
- Thưa ông, tôi là bé Giecve.
- Cút đi!
- Ông trả tôi đồng hào đã.
Giăng VanGiăng cúi đầu không nói gì. Thằng bé lại đòi:
- Đồng hào của tôi, ông!
Giăng VanGiăng vẫn cúi nhìn xuống đất. Thằng bé lại kêu:
- Đồng hào của tôi! Đồng hào trắng của tôi đâu? Trả tiền của tôi lại cho tôi.
Giăng
VanGiăng vẫn lặng thinh như không nghe thấy. Thằng bé nắm lấy cổ áo anh
lay mạnh. Đồng thời nó cố hết sức đẩy cái chân đi giầy đinh đang giẫm
lên đồng hào của nó.

-
Trả tiền tôi đây! Trả đồng hào bốn mươi xu của tôi cho tôi! – Thằng bé
vừa đòi vừa khóc. Giăng VanGiăng ngẩng đầu lên nhưng vẫn ngồi. Đôi mắt
anh đục ngầu. Anh nhìn chằm chằm thằng bé, ra vẻ ngạc nhiên lắm, rồi giơ
tay vó lấy cây gậy, miệng thét to:

- Đứa nào đấy?
- Tôi đây, ông ơi! Bé Giecve đây. Tôi, tôi đây! Xin ông trả tôi đồng hào bốn mươi xu. Xin ông nhấc bàn chân lên cho!
Tuy nhỏ xíu, thằng bé cũng phát cáu lên gần như muốn nạt nộ:
- Thế nào! Ông có bỏ chân ra không? Bỏ chân ra đi!
- A, vẫn mày à?
Giăng VanGiăng vùng đứng thẳng dậy, chân vẫn giẫm lên đồng hào:
- Mày có xéo đi không?
Thằng
bé sợ hãi, giương mắt nhìn, bỗng cả người nó phát run lên. Nó ngơ ngác
một lúc rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy, không dám quay cổ lại, không dám
kêu lên lấy một tiếng.

Chạy được một quãng xa, thằng bé hết hơi phải dừng lại. Giăng VanGiăng trong cơn mơ màng nghe thấy tiếng nó nức nở khóc.
Một lúc sau thằng bé mất hút.
Mặt trời đã lặn.
Bóng tối trùm chung quanh Giăng VanGiăng. Cả ngày hôm ấy anh chưa ăn uống gì. Chắc anh đương lên cơn sốt.
Từ
lúc thằng bé bỏ chạy, anh vẫn đứng ngây người, không cử động. Ngực anh
phập phồng, hơi thở dài và không đều. Mắt trân trân nhìn xuống đám cỏ
cách mười bước, hình như chú ý nhận xét và ngắm nghía hình thù miếng mẻ
sành màu lam rơi trong đó.

Bỗng anh rùng mình: hơi lạnh hoàng hôn bắt đầu thấm vào người.
Anh kéo sát mũ xuống trán, thờ thẫn khép lại vạt áo ngoài và cài cúc lại, bước lên một bước và cúi nhặt cây gậy dưới đất.
Lúc ấy, anh chợt trông thấy đồng hào bị gót giày gần vùi xuống đất đang lấp lánh trong cát sỏi.
Trong người như bị điện giật. Anh lẩm bẩm trong miệng:
- Cái gì thế này?
Anh
lùi lại ba bước, rồi đứng sững lại, mắt không rời khỏi chỗ vừa mới giẫm
chân xuống, tưởng chừng như cái vật lấp lánh trong bóng tối kia là một
con mắt đang nhìn chòng chọc.

Mấy
phút sau, anh run rẩy nhảy đến chỗ đồng tiền, cầm lên, đứng dậy rồi đưa
mắt ra tận đằng xa, nhìn quanh cánh đồng một vòng. Cả người anh run rẩy
như con thú dữ sợ hãi đương tìm chỗ ẩn.

Nhìn mãi chẳng thấy gì. Trời đã tối. Cánh đồng lạnh lẽo và lờ mờ. Từng đám sương mù tim tím bốc lên trong ánh hoàng hôn.
Anh “à” một tiếng rồi rảo bước đi về phía thằng bé bỏ chạy. Đi độ trăm bước anh đứng lại nhìn. Vẫn không thấy gì hết.
Anh bèn gọi thật to:
- Bé Giecve! Bé Giecve!
Gọi xong anh đứng yên chờ. Không thấy ai thưa cả.
Cánh
đồng vắng ngắt và quạnh hiu. Chung quanh là quãng trống mù mịt. Chỉ có
bóng tối, mắt nhìn chẳng thấy gì. Bốn bề yên lặng, tiếng gọi tan vào
thinh không.

Cơn
gió lạnh lẽo thổi làm cho cảnh vật thêm thê lương. Những cành cây trụi
lá in hình những cánh tay gầy guộc vung vẩy cuống cuồng như muốn dọa nạt
đuổi bắt ai.

Anh lại đi, rồi vùng chạy, thỉnh thoảng đứng lại, gọi thét lên trong khoảng vắng, nghe kinh khủng, thảm thiết lạ lùng:
- Bé Giecve! Bé Giecve!
Nếu thực thằng bé có nghe thấy tiếng gọi như thế, nó cũng hết vía, chẳng dám thò mặt ra, nhưng chắc chắn là nó đi xa rồi.
Gặp một ông cố đạo cưỡi ngựa đi qua, anh chạy theo hỏi:
- Cụ xứ ơi! Cụ có thấy thằng bé nào đi qua đây không?
- Không.
- Một thằng nhỏ tên là Bé Giecve mà?
- Tôi không gặp ai hết.
Anh móc trong bọc ra hai đồng năm phơrăng đưa cho ông:
-
Thưa cụ, cụ cầm món này để giúp kẻ khó. Cụ ạ, thằng bé ấy độ mười tuổi,
hình như lưng có đeo chiếc hòm gỗ và cây đàn. Nó đi khắp nơi. Một thằng
bé đi rong làm mướn ấy mà. Cụ biết chứ?

- Tôi không thấy thằng bé ấy.
- Thằng bé Giecve mà? Nó không phải là người làng nào vùng này sao cụ? Cụ bảo hộ cho.
- Như lời anh vừa nói thì thằng bé ấy ở vùng xa đến. Nó đi ngang qua đây thôi. Ai mà biết được.
Giăng VanGiăng hấp tấp móc thêm hai đồng năm phơrăng nữa:
- Để ông làm phúc.
Rồi anh ngơ ngác bảo:
- Cụ linh mục ơi! Tôi là một thằng ăn cướp. Nhờ cụ cho bắt tôi đi.
Ông cố đạo thất kinh, thúc ngựa phóng thẳng.
Giăng
VanGiăng lại cứ lối ban nãy cắm đầu chạy. Cứ như thế một thôi dài, vừa
nhìn, vừa gọi, vừa kêu, nhưng chẳng thấy một ai. Hai ba phen thấy cái gì
như bóng người nằm hay ngồi xổm, anh băng đồng chạy đến. Nhưng đến gần
thì chỉ là bụi cây hay tảng đá nổi lên mặt đất. Sau hết, đến một chỗ ngã
ba đường, anh đứng lại. Trăng đã lên. Anh đưa mắt nhìn đằng xa và gọi
một lần cuối: “Bé Giecve! Bé Giecve! Bé Giecve!” Tiếng gọi chìm vào
trong sương mù, không một tiếng vọng lại. Anh còn phều phào thêm: “Bé
Giecve!” Nhưng giọng đã đuối và không còn rõ nữa; anh đã kiệt sức. Hai
chân bỗng nhiên khuỵu xuống, như cả cái khối nặng tội lỗi vô hình đè dúi
lên người. Thể xác rã rời anh buông mình xuống một tảng đá lớn, hai tay
túm lấy tóc, mặt cúi gằm vào giữa hai đầu gối, miệng kêu rú lên:

- Ta là một thằng khốn nạn!
Trái tim vỡ ra, anh khóc rưng rức. Mười chín năm trời, bây giờ anh mới khóc lần này là lần đầu.

nhà ông giám mục ra, như mọi người đã biết, Giăng VanGiăng thấy mình như
xa lạ với tát cả những điều anh suy nghĩ từ trước đến giờ. Anh không
hiểu nổi trong anh đã có chuyện gì xảy ra. Anh cố làm cho lòng mình rắn
lại để chống chế với cử chỉ thiêng liêng với những lời hiền từ của ông
cụ: “Anh đã hứa với ta sẽ trở thành con người lương thiện. Linh hồn của
anh, ta mua đây, ta đem nó ra khỏi tư tưởng lầm lỗi, ta đem dâng nó cho
Chúa”. Những lời ấy chốc chốc lại vang lên bên tai. Để cưỡng lại lòng
bao dung vời vợi ấy, anh viện đến lòng tự kiêu, nó như là pháo đài của
tội lỗi trong ta. Anh mơ hồ cảm thấy lời tha tội của nhà tu hành như một
đợt xung phong dữ dội, một trận tấn công quyết liệt nhất đến bây giờ
vẫn còn làm choáng váng; nếu anh cưỡng lại đức độ lượng kia được, thì
lòng anh sẽ trơ như gỗ đá suốt đời; còn nếu anh chịu nghe, thì anh phải
xua đuổi nỗi căm hờn bao nhiêu kẻ khác đã gieo vào lòng anh trong bấy
nhiêu năm, mà anh lại lấy làm thích thú; lần này thì thắng hay bại phải
quyết tâm chọn một, bởi vì cuộc giao tranh đã mở ra rồi, một cuộc giao
tranh khổng lồ có tính chất quyết định, giữa một bên là tính độc ác của
anh và bên kia là đức nhân từ của ông cụ.

Trước những tia sáng như vậy, anh bước đi như người say rượu, mắt nhìn lơ láo. Anh có nghiệm ra rằng câu chuyện ở Đinhơ
sẽ đem lại cho anh kết quả gì chăng? Anh có nghe thấy chăng những lời
thì thầm bí ẩn như cảnh cáo, như quấy rầy lương tâm người ta những lúc
nào đó trong đời? Có ai bảo nhỏ bên tai rằng anh vừa trải qua cái giờ
nghiêm trọng nhất của số phận không? Rằng từ nay anh không còn lưng
chừng được nữa, thế không là người tốt nhất thì là người xấu thậm tệ,
hoặc anh lên cao hơn cả ông giám mục, hoặc anh rơi xuống thấp hơn cả tên
tù khổ sai, rằng nếu muốn trở nên người tốt thì anh phải làm bậc thiên
thần, còn nếu muốn khư khư làm kẻ ác thì anh phải làm một con quái vật?

Đến
đây lần nữa lại phải đặt lại những câu hỏi chỗ khác đã từng đặt ra. Vậy
anh có thu nhận vào tâm trí anh chút gì về tất cả những cái này không,
dù chỉ là mơ hồ? Đành rằng, điều này chúng tôi đã nói, khổ quá thì rồi
cũng hóa khôn, nhưng anh đã có thể lần được những điều chúng tôi vạch ra
đây thì hãy còn đáng ngờ lắm. Ví thử các ý nghĩ này có đến với anh thì
anh cũng chỉ mới hé thấy thôi, chứ chưa có thể nhìn ra rành rọt được và
như thế nó chỉ được mỗi một việc là làm cho anh bối rối đến nỗi không
sao chịu được và gần như là đau đớn. Anh vừa mới ra khỏi cái nơi kỳ quái
và đen tối kia mà người ta gọi là nhà tù khổ sai, thì tâm hồn như bị
ông giám mục làm cho đau buốt, tựa như cặp mắt vừa ra khỏi bóng đêm phải
nhức nhối trước ánh sáng chói lòa. Cuộc sống mai sau, cuộc sống có thể
hiện ra trước mắt anh thanh khiết và rực rỡ vô cùng, khiến người anh
không thôi rung động và bàng hoàng. Nói thật, anh cũng không hiểu anh
đang ra làm sao. Chẳng khác gì con cú đột nhiên nhìn thấy mặt trời,
người trong tù là anh cũng lóa mắt như mù trước ánh sáng của đạo đức.

Điều
chắc chắn, mà anh không ngờ tới là anh không còn như trước, trong người
anh hết thảy đã thay đổi và dù sao ông giám mục cũng đã chuyện trò với
anh, cũng đã làm anh xúc động, anh có muốn cũng không xóa điều đó được.
Tâm trí anh đang ở vào tình trạng như thế thì anh gặp Bé Giecve và cướp
của nó đồng bốn mươi xu. Sao lại thế! Thật anh không giải thích nổi; tác
dụng cuối cùng, vùng vẫy sau rốt của những ý nghĩ xấu xa mang từ nhà
ngục về chăng? Một chút sức đẩy bên trong còn sót lại, một thứ quán tính
như người ta thường nói trong tĩnh học chăng? Đúng là thế và có thể tệ
hơn thế. Nói ngay không phải là anh đã ăn cướp, không phải con người mà
con vật trong anh, vì tập quán, vì bản năng mà làm cái việc ngu xuẩn là
đặt bàn chân lên trên hào bạc, trong lúc trí tuệ đang vật vã giữa bao
nhiêu ám ảnh mới mẻ, khó tả. Khi trí tuệ sực tỉnh và nhận ra hành động
kia của con vật, anh hoảng hốt giật lùi và rú lên ghê sợ.

Quả
là một hiện tượng kỳ lạ và chỉ có thể xảy ra trong tình hình bấy giờ.
Bởi vì, khi cướp đồng hào kia của đứa bé, anh đã làm một việc mà anh
không còn đủ sức làm nữa.


sao đi nữa, hành động xấu xa cuối cùng này cũng có ý nghĩa quyết định
đối với anh. Nó đã vụt qua cảnh ngổn ngang trong tâm trí anh, dẹp tan nó
đi, rạch ra một bên là những bóng đen dày đặc, một bên là ánh sáng, tác
động lên tâm hồn anh trong tình thế bấy giờ, như một chất hóa học tác
động vào một dung dịch đục ngầu, làm cho một nhân tố kết tủa và nhân tố
kia trong lên.

Trước
tiên, chưa kịp có thì giờ suy nghĩ, xem xét lại mình, anh đâm hoảng và
như người tìm đường chạy trốn, anh cố sức tìm lại em bé để trả lại cho
em đồng hào: cho đến khi thấy cố bao nhiêu cũng vô ích, anh mới dừng lại
tuyệt vọng. Và lúc anh kêu lên: ta là một kẻ khốn nạn! Thì đúng là lúc
anh vừa nhận ra mình là người thế nào; anh đã rời xa con người cũ của
mình đến mức có cảm tưởng mình chỉ là một bóng ma, còn trước mắt mình là
tên tù khổ sai Giăng VanGiăng đáng tởm, nó lại bằng xương bằng thịt,
tay cầm gậy, mình mặc áo tù, trong xác chứa đầy các thứ đồ ăn trộm, bộ
mặt lầm lì và cả quyết, trong óc đầy những tính toán xấu xa.

Như
chúng tôi đã lưu ý, vì cùng khổ quá mà anh dễ xin ảo tưởng. Vừa rồi
cũng như một sự hiển hiện. Rõ ràng là anh nhìn thất Giăng VanGiăng, nhìn
thấy bộ mặt đáng sợ ấy trước mặt. Anh gần như đến lúc tự hỏi mình kẻ đó
là ai và trong lòng lấy làm kinh tởm.

Trí
óc anh bấy giờ như đang ở vào một thời khắc dữ dội, nhưng lại yên tĩnh
một cách đáng sợ. Anh như chìm sâu vào mơ màng, sự thật cuộc đời đều như
tan biến. Không còn thấy những sự vật xung quanh, mà lại thấy hiện ra
bên ngoài nhiều dáng hình ở trong đầu óc.


thể nói là anh tự ngắm lấy mình, mặt đối mặt. Và ngay lúc ấy, trong cơn
ảo giác, anh lại trông thấy từ cõi xa bí ẩn, một thứ ánh sáng mà thoạt
tiên anh tưởng là một ngọn đuốc. Nhìn kỹ thêm thứ ánh sáng hiện lên
trong lương tâm ấy, anh lại thấy nó có hình người và ngọn đuốc kia là
ông giám mục.

Ý
thức anh lần lượt nhìn hai con người đứng trước mặt mình, ông giám mục
và tên Giăng VanGiăng. Phải có đến lửa thiêng của vị này mới luyện dịu
được tên kia. Do tác dụng kỳ lạ của cơn say sưa này, anh càng mơ màng
thì trước mặt anh, ông giám mục càng to lên, sáng rỡ, còn Giăng VanGiăng
thì bé lại và phai mờ đi. Đến một lúc hắn chỉ còn mơ hồ như cái bóng
ma. Đột nhiên hắn biến mất. Chỉ còn một mình ông giám mục.

Tâm hồn con người khốn khổ này, nhờ ông mà tràn trề ánh sáng lộng lẫy.
Giăng VanGiăng khóc lâu lắm. Nước mắt ràn rụa, tiếng khóc nức nở, yếu đuối hơn đàn bà và sợ hãi hơn trẻ con.
Nước
mắt tuôn ra, đầu óc dần dần sáng sủa lên, một thứ ánh sáng lạ lùng, vừa
rạng rỡ lại vừa kinh khủng. Cuộc đời dĩ vãng, cái tội ăn trộm bánh ngày
xưa, cảnh sống tù tội đằng đẵng mấy mươi năm, cái vẻ ngây độn bề ngoài,
cõi lòng cứng rắn bên trong, ngày phóng thích thấy vui lên, vì bao
nhiêu kế hoạch trả thù đã xếp đặt chuyện xảy ra ở nhà ông giám mục, cái
việc vừa mới làm xong, tức việc ăn cướp đồng hào của thằng bé, cái tội
thực là hèn nhát, thực là xấu xa vì nó phạm vào ngay sau lúc được ông
giám mục tha thứ, tất cả những cái đó lần lượt hiện ra trong óc anh rõ
rệt, dưới một thứ ánh sáng anh chưa từng được thấy bao giờ. Anh nhìn lại
cuộc đời của anh mà ghê sợ. Anh nhìn lại linh hồn anh, thấy ghê tởm.
Tuy vậy, hình như dưới ánh sáng của Thiên đường, anh đang nhìn rõ mặt
quỷ Xatăng.

Anh
khóc như vậy bao nhiêu lần? Khóc rồi anh làm gì? Đi đâu? Về sau không
ai biết cả. Chỉ biết rằng, đêm hôm ấy, người chủ xe thường chở khách đi
Grơnốp, đến
Đinhơ hồi ba giờ sáng, khi đi qua phố dinh giám mục, có thấy một người quì gối trên thềm trong bóng tối, trước cửa nhà Đức Cha Biêngvơnuy. Hình như người ấy đang cầu nguyện.
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:25 pm

QUYỂN III

TRONG NĂM 1817

I

NĂM 1817


Ngang
nhiên tự tại một cách đế vương và đầy kiêu hãnh. Lui thứ XVIII gọi năm
1817 là năm thứ hai mươi niên hiệu mình. Hết thảy các hiệu tóc giả quét
vôi màu thanh thiên và vẽ hoa huệ đều mong chờ phấn thơm và con chim nhà
vua trở lại. Cũng là thời mà bá tước Linsơ chủ nhật nào cũng ngồi nơi
ghế hội đồng nhà thờ Xanh Giecmanh đê Pơrê, đánh bộ lễ phục đình thần,
với chiếc băng đỏ và cái mũ dài và trông nghiêng thì có cái vẻ uy nghi
riêng của người đã có một hành động vang dội. Hành động vang dội của ông
Linsơlà thế này; ngày 12 tháng 3 năm 1814, lúc ấy ông đang làm thị
trưởng Bóocđô, ông đã giao hơi sớm quá thành phố này cho công tước
Ănggulem. Nhờ đó ông được làm thượng viện.

Năm
1817 cũng là năm đang thịnh hành cái mốt trẻ con năm sáu tuổi tùm hụp
trong những cát két da rộng có miếng che tai giông giống người Etkimô.
Quân đội đều mặc đồng phục trắng giống quân Áo; các trung đoàn đều gọi
là dũng đoàn; các đơn vị không gọi bằng con số mà bằng tên các quận;
Napoleon đang ở Xanh Elen, chính phủ Anh không cấp dạ xanh cho ông, nên ông cho lộn áo cũ để mặc.

Năm
1817 người ta chuộng tiếng hát của Penlơgrini, điệu múa của cô
Bigôtini; Pôchiê bấy giờ làm chúa tể; Ôđơri lúc ấy chưa có. Bà Xaki nối
nghiệp Phôriôđô. Đang còn có quân Phổ ở Pháp. Ông Đơlalô là một nhân
vật. Chế độ chính thống vừa khẳng định mình bằng cách chặt tay, rồi chặt
đầu Pơlenhiê, Cácbonnô và Tônlơrông. Quận công Tanlêrăng nghi lễ đại
thần và tu sĩ Luy, bộ trưởng tài chính được chỉ định, nhìn nhau cười cái
cười nước đôi; cả hai đã làm lễ Liên hiệp 14 tháng 7 năm 1790 ở quảng
trường Săng đơ Macxơ Tanlêrăng với tư cách giám mục, còn Luy thì làm bồi
tế.

Năm
1817, trong các lối đi của quảng trường ấy, còn nhìn thấy nhiều khúc gỗ
to sơn xanh, mang hình ảnh mờ mờ của những con phượng hoàng và những
con ong mầu đã nhạt. Những súc gỗ ấy nằm phơi ngoài mưa nắng và đang mục
dần trong cỏ. Hai năm trước đây, đó là chân bục của Hoàng đế ở quảng
trường Tháng Năm. Rải rác trên thân các súc gỗ hãy còn những chỗ sém do
quân Áo đốt lửa nấu cơm trong khi đóng dã ngoại gần Gơrô Caiu. Vài ba
cây cột đó đã biến mất trong lửa dã ngoại ấy để cho thân binh Phổ sưởi
tay. Cuộc họp mặt Săng đơ Me có cái đặc biệt là họp vào tháng sáu và ở
quảng trường Săng đơ Macxơ.

Trong
năm 1817, hai cái nổi tiếng nhất: thuốc lá và hộp thuốc lá kiểu Hiến
chương. Ở Paris, cái vụ mới nhất làm người ta xôn xao là vụ Đôtăng nắm
đầu lâu anh mình vào bể nước ở Chợ Hoa. Ở bộ Hải quân người ta bắt đầu
điều tra về thảm họa của chiến hạm La Mêđuydơ cái tên sau này Sômaret bị
ô nhục, còn Giôricô thì đầy vinh dự. Đại tá Xenvơ sang Ai Cập rồi làm
tỉnh trưởng luôn bên ấy. Lâu đài Tecmơ, ở phố Hacpơ, có anh thợ đóng
thùng đến dọn hàng ở đó. Trên sân thượng của lầu bát giác ở C
ơluyni
còn thấy cái lầu ván là nơi dùng làm thiên văn đài cho Matxiê, nhà
thiên văn của hải quân dưới triều Lui XVI. Bà công tước Đuyra họp ba bốn
bạn trai trong phòng khuê của mình có bày nhiều ghế đẩu bọc xa tanh màu
da trời, đọc cho họ nghe cuốn truyện Urica chưa xuất bản.


điện Luvơrơ người ta cạo các chữ N. Cầu Austeclit bị truất mất tên, đổi
thành cầu Vườn ngự, cái hai lần khó hiểu, nó làm sai nghĩa của cái cầu
Austeclit lẫn cái vườn bách thảo. Lui XVIII, vừa lấy móng tay đánh dấu
trong khi đọc Oartxơ, vừa chú
ý
đến những bậc anh hùng được lên làm vua cũng như những anh hùng guốc
nhảy lên làm thái tử, nhưng trong bụng vẫn canh cánh hai mối lo:
Napoleon và Matuyranh Bơruynô.

Viện hàn lâm treo giải thưởng về đề tài: Hạnh phúc trong học tập. Ông
Benla công khai là một nhà hùng biện. Dưới bóng ông đang nẩy mầm cái
ông chánh án tương lai đơ Bơrô, để làm đối tượng giễu cợt cho Pôn Lui
Cuariê sau này. Có một anh Satôbơriăng giả, tên là Macsănggi, trong khi
chờ đợi có thể có một anh Macsănggi giả, là d’Alanhcua. Cơled’ Anbơ và Malec Anden là những tuyệt tác; bà Côtlanh được coi là nhà văn số một đương thời. Học viện Pháp để người xóa trong danh sách tên viện sĩ
Napoleon Bônapac. Một đạo dụ nhà vua đưa Ănggulem làm đại đô đốc, thì nhất định thành phố Ănggulem, về pháp
phải có đủ tư cách là một hải cảng, không thế thì còn gì là uy quyền
thiên tử? Hội đồng bộ trưởng thảo luận vấn đề có nên cho phép những con
tem vẽ hình người leo dây thường thấy trên các áp phích của Phơrăngcôri
mà trẻ con lêu lổng hay xúm lại xem ngoài phố. Ông Pae, tác giả vở
Anhedơ, người có khuôn mặt chữ điền với một nốt ruồi trên má, chỉ huy
các buổi hòa nhạc thân mật ở nhà bà hầu tước Xatxơnê phố Vinlêvêc. Thiếu
nữ đầu hát bài “Ẩn sĩ Xanh Aven”, lời của Etmông Giêrô. Anh lùn vàng đổi thành Gương soi.
Quán cà phê Lambơlanh về phe hoàng đế chống lại quán cà phê Valoa về
phe dòng Buốcbông. Một quận chúa Xivin vừa được gả cho công tước Beri,
ông này đã bị Luven rình từ trong bóng tối. Bà Xtan vừa mất được một
năm. Lính thị vệ
huýt còi chê cô Mac. Các tờ báo lớn đều ra nhỏ xíu. Khổ thu hẹp nhưng tự do thì rộng. Tờ Hợp hiến rất hợp hiến. Tờ Minecvơ gọi Satôbơriăng là thăn bò nướng (tiếng Pháp: Chateaubriand- văn hào thế kỷ XIX đọc như chateaubriant – thăn bò nướng).Bọn
tư sản được dịp đem nhà văn hào ra cười khoái chí. Trên mặt một số tờ
báo tay sai, những tên bồi bút lên tiếng chửi những người bị can năm
1815: Đavit không còn tài năng gì; Acnô không còn tài trí gì; Cacnô
không còn trung thực nữa; Xun không chiến thắng trận nào; đúng là
Napoleon không còn thiên tài nữa.

Mọi
người đều biết là thư từ cho người lưu vong gửi qua đường bưu điện chả
mấy khi tới tay họ, vì cảnh sát đã thành kính làm mấy cái nhiệm vụ chặn
lại rồi.

Việc này chẳng có gì mới:
ngày xưa, Đêcác bị đày cũng đã phàn nàn rồi. Cho nên, khi Đavit tỏ ý
không bằng lòng trên một tờ báo Bỉ vì không nhận được thư từ gì người ta
gửi cho mình, thì báo chí bảo hoàng cho là chuyện khôi hài và nhân đó
mạt sát người biệt xứ. Nói: quân giết vua hay nói: người biểu quyết, nói: quân địch hay nói: đồng minh, nói: Napoleon hay nói: Buyônapac, điều
đó làm cho hai người cách biệt nhau trời vự. Hết thảy mọi người hiểu
biết đều đồng thanh cho rằng kỷ nguyên cách mạng đã vĩnh viễn đóng lại
với vua Lui XVIII mệnh danh là “tác giả bất hủ của hiến chương”. Chỗ đầu
Cầu mới, người ta chạm chữ Sống mãi vào cái bệ đang chờ tượng Hăngri IV (Nguyên văn Latinh: Redivivus).Ông
Piet bắt đầu phác họa cái hội kín của mình để củng cố cho chế độ quân
chủ, ở ngôi nhà số 4 phố Têredơ. Các thủ lĩnh phái hữu bô bô trong các
dịp quan trọng: “Phải viết thư cho Bacô”. Các ông Canuyen, Ô Mahôny và
Sappơđơlen, đã phần nào được Đức ủng hộ, bắt đầu một vài nét cái mà sau
này trở thành “âm mưu bờ sông”. Kim Băng Đen về phần mình cũng tiến hành
lập hội kín. Đơlavecđơri bắt tay với Tơrôpgop. Ông Đơcadơ, một đầu óc
ít nhiều thuộc cánh tự do, chiếm ảnh hưởng lớn, Satôbơriăng, sáng sáng
đứng trước cửa nhà số 27 phố Xanh Đôminic, bận quần bịt cả bàn chân, đi
giày vải, đầu hoa râm trùm một cái khăn lụa pha vải, mắt nhìn chăm chú
vào gương soi, trước mắt cái hộp dụng cụ chữa răng đầy đủ mở toang, vừa
chải bộ răng xinh đẹp vừa đọc đoạn khác biệt trong bộ Chế độ quân chủ theo Hiến chương cho người thư k‎ý của mình, ông Piloogiơ.

Giới phê bình có uy tín tỏ
ra thích Laphông hơn là Tanma. Ông Phêlêt ký bằng một chữ A, ông Hốp man
lại lấy tên là Z, Saclơ Nôđiê viết Têredơ Ôbe. Luật ly dị bị xóa
bỏ. Các trường ly xê đổi tên là Conlegiơ. Học trò các trường Conlegiơ,
cổ áo dính một hoa huệ vàng, đánh nhau chung quanh câu chuyện vui La Mã,
cảnh sát phản gián của hoàng gia tố giác với đức bà Hoàng muội chân
dung của công tước Ooclêăng, bày nhan nhản, ông này bận quân phục thiếu
tướng khinh kỵ; thật là rầy rà. Thành phố Paris bỏ tiền thếp vàng lại
vòm cuốn điện Anhvalit. Những người đứng đắn tự hỏi, trong trường hợp
này, trong trường hợp khác, ông Tơrarhcơlagơ làm gì. Ông Cơlôđen đơ
Môngtan, trên nhiều điểm, khác xa ông Côlôđen đơ Cutxecgơ. Ông Xalabery
không bằng lòng diễn viên Pica có chân trong Viện hàn lâm, nơi mà diễn
viên Môlie không vào được; ông ta cho công diễn vở Hai anh em Philibe ở nhà hát Ôđêông. Trước mặt nhà hát này, ở trên cao, một dòng chữ đã gỡ đi nhưng vẫn còn trông thấy rõ: Rạp Hoàng Hậu.

Người ta hoặc ủng hộ hoặc
chống lại. Quynhê đơ Môngtaclô, Phaviê thì chia rẽ: Bavu thì cách mạng.
Ông hàng sách Pêlixiê xuất bản bộ Vônte, lấy tên là: Vônte toàn tập, dưới
có dòng chữ “Trong Viện hàn lâm Pháp”. “Như thế sẽ câu được khách”, nhà
xuất bản ngây thơ bảo thế. Dư luận rộng rãi cho ông Saclơ Lôixông là
một thiên tài của thời đại: ganh tị bắt đầu cắn rứt ông ta, đó là dấu
hiệu thành công; và người ta tặng ông câu thơ này:


Lôixông mà có bay cao


Thiên hạ trông vào vẫn rõ cẳng chân

Giáo chủ Phếch không chịu từ
chức, ông Pin đại giám mục ở Amadi, cai quản địa phận Lyông. Thụy Sĩ và
Pháp bắt đầu tranh chấp thung lũng Đappơ, sau bản báo cáo của đại úy
Đuyphua. Xanh Ximông, bị bỏ quên, đang xây đắp giấc mơ cao cả của mình.

Ở viện hàn lâm khoa học có
một anh Phuriê nổi tiếng mà về sau chẳng ai biết đến, ngược lại, ở trong
cái xó nào không rõ lại có một anh Phuriê khác vô danh nhưng hậu thế
lại nêu danh mãi mãi.

Huân tước Bairơn bắt đầu
xuất hiện. Một lời dẫn trong một bài thơ của Minlơvoa nói đến ông ta với
độc giả Pháp gọi là “Một huân tước Barông nào đó”. Đavit Đănggie thí
nghiệm nhào cẩm thạch.

Tu viện trưởng Carông,
chuyện trò với dăm ba học sinh chủng viện trong ngõ cụt Phơidăngtin,
khen ngợi một nhà tu hành không mấy ai biết là Phêlixitê Rôbe sau này
trở thành Lamenne.

Một vật gì vừa hun khói vừa
lạch bạch trên sông Xen như tiếng chó bơi, qua qua lại lại trước cửa
điện Tuylơri, từ cầu Ngự đến cầu Lui XV; đó là một thứ máy móc chẳng
tích sự gì, một thứ đồ chơi, một giấc mơ phiến của một anh phát minh vớ
vẩn, một huyễn tưởng: một chiếc tàu chạy bằng hơi nước. Dân Paris nhìn
cái trò vô bổ ấy với con mắt lạnh lùng.

Ông Vôbơlăng đứng ra cải tổ
Học viện Pháp bằng cách lật đổ, ra sắc lệnh phế truất và tiến cử người
hàng loạt, sau khi nổi tiếng đã đẻ được khá nhiều ông hàn thì bản thân
mình lại chẳng được vào chân hàn lâm nào cả.

Vùng ngoại ô Xanh Giecman và
khu Matxăng đều mong ước được ông Đơlavô làm quận trưởng cảnh sát vì
ông nổi tiếng ngoan đạo. Đuypuytơren và Rêcamiê cãi nhau ở giảng đường
đại học Y khoa về tính thiêng liêng của Giêsu đến nỗi đã giơ nắm tay dọa
nhau. Quyviê vừa nhìn vào thiên Sáng thế vừa nhìn vào thiên nhiên, cố
sức làm vừa lòng các đầu óc phản động giả đạo đức bằng cách làm cho các
hóa thạch phù hợp với lời kinh thánh và cho lũ voi cổ vuốt ve Môidơ.
ÔngPhơrăngxoa đơ Nơsalô, người có công vun xới cho hương hồn
Pacmăngchiê, tìm hết cách để mọi người lấy cái tên Pacmăngchiê để gọi
khoai tây mà không được (Parmentier là nhà nông học – thế kỷ XVII đã
mang giống khoai tây từ Mỹ vào nước Pháp và dạy trồng trọt, cải tạo
giống- Neufchâteau muốn gọi khoai tây là Parmentier- nhân dân vẫn gọi là
pomme de terre có nghĩa là táo đất)
. Tu sĩ Gơrêgoa, trước là
giám mục, có chân trong quốc hội Quốc ước, thượng nghị sĩ, được các nhà
tranh luận bảo hoàng mệnh danh là “tên Gơrêgoa chết giẫm”. Cách nói được mệnh danh là ông Roađê Cônla cho là từ tân tạo chứ trong ngôn ngữ không có.

Người ta còn nhìn rõ dưới
nhịp thứ ba cầu Iêna cái phiến đá trắng, hai năm trước đây dùng để bịt
lỗ mìn mà Bơluyse cho đục để phá cầu.

Tòa án lôi ra vành móng ngựa một anh chàng vừa thấy Bá tước Actoa bước vào nhà thờ Đức bà, lại buột mồm nói tướng lên: Mẹ kiếp! Tớ tiếc cái thời tớ thấy Bônapac và Tanma khoác tay nhau bước vào Ban Xôvagiơ (Talma: diễn viên kịch nổi tiếng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ở Pháp).Giọng
lưỡi phiến loạn. Sáu tháng tù. Nhiều tên phản bội phanh ngực ngạo nghễ:
những kẻ chạy sang hàng ngũ giặc trước hôm đánh nhau, chẳng giấu giếm
gì món phần thưởng được ban và nhơn nhơn bộ mặt vô số ngoài đường ban
ngày với tất cả sự giầu sang của mình; những tên đào ngũ ở Linhi, ở ngã
tư, mà hành vi phản bội được trả công đang còn sờ sờ ra đấy, chúng phô
trương lòng trung thành với nhà vua một cách trắng trợn, chúng quên
khuấy cái câu ở bên nước Anh người ta để trên vách trong nhà tiêu công
cộng: Nhớ cài quần trước khi đứng lên.

Trên đây là một mớ lộn xộn
những gì nổi lên mờ mờ trong năm 1817 mà ngày nay không ai còn nhớ cả.
Lịch sử cũng không còn cách nào khác, nên phải bỏ qua hầu hết những thứ
tủn mủn như thế này. Nếu không thì nói bao giờ cho hết. Tuy nhiên những
chi tiết đó mà gọi là nhỏ nhặt thì không đúng, vì trong nhân loại không
có việc gì nhỏ hết, cũng như trong cây cối không có lá nào bé cả, cho
nên nó đều có ích. Chính diện mạo từng năm làm nên diện mạo thế kỷ.

Năm 1817 ấy, bốn chàng trai Paris đã bày “Một trò chơi ác”.

II


HAI BỘ TỨ


Bốn
chàng trai Paris ấy quê quán mỗi người ở một tỉnh, kẻ ở Tulu, người
Limô, người thứ ba ở Caho, người thứ tư ở Môngtôbăng. Nhưng họ là sinh
viên, mà đã là sinh viên thì là trai thủ đô; học ở Paris và sinh ở
Paris.

Bọn họ chẳng có gì đặc sắc. Ai chả từng thấy những mu
người tầm thường như thế; những con người không tốt không xấu, không
giỏi không dốt, không phải là thiên tài cũng không ngu độn, nhưng đẹp
phơi phới cái tuổi xuân hai mươi. Có thể gọi họ là bốn chàng Ôtxca nào
đó, vì bấy giờ những chàng Actuya chưa xuất hiện. Lời tình ca đang réo
rắt về Ôtxca:
Hãy vì chàng mà đốt lên những hương trầm thơm nhất. Kìa Ôtxca, Ôtxca đang đi tới, ta sắp nhìn thấy chàng! Người ta vừa mới ri Ôtxiăng. Phép lịch sự đang theo một trong các xứ Xcăngđinavi và Calêđôni. Còn cái kiểu Ănglê thuần túy thì về sau mới thịnh hành. Và anh chàng Aclơ đầu tiên, Oenlinhtơn, thì hầu như vừa mới thắng trận Oateclô thôi.

Các
chàng Ôtxca ấy, một là Phêlit Tôlômiet, người Tuludơ; một là Lichtôliê,
người Caho; một là Phamơi, người Limôgiơ; và người cuối cùng là
Balasơven, quê ở Môngtôbăng. Tất nhiên mỗi chàng có một nhân tình.
Balasơven yêu Phavurit, cô nàng này có sang Anh nên mới gọi như vậy;
Lichtôliê mê Đalia
(hoa thược dược),
con người đã lấy tên một loài hoa đặt thành tên chơi của mình; Phamơi
sùng bái Dêphin, đúng là Giôdêphin nhưng gọi tắt; còn Tôlômiet thì đã có
Phăngtin, gọi cô là tóc vàng vì đầu tóc nàng óng ả như ánh mặt trời.

Bốn
cô thiếu nữ xinh đẹp, thơm tho, rực rỡ ấy hãy còn giữ được chút cốt
cách con nhà thơ, vì họ chưa rời bỏ hẳn đường chỉ mũi kim. Trên gương
mặt các cô còn phảng phất vẻ trong lành của người lao động; trong tâm
hồn các cô còn thoang thoảng mùi hương trinh thục chưa bay hết khi mới
sa ngã một lần.

Trong
bốn cô, có một cô út và một chị cả. Chị cả tuổi cũng chỉ mới hai mươi
ba. Quả đáng tội ba cô chị có từng trải hơn, vô tư lự và phóng túng hơn.
Cô út, cô Phăngtin tóc vàng, lần đầu xây mộng.

Đalia,
Dêphin và nhất là Phavurit thì không thể nói như vậy được. Cô nào cũng
có thiên tình sử của mình, tuy mới bắt đầu nhưng cũng đã được vài ba
đoạn. Người bạn tình ở chương thứ nhất ấy là Ađôphơ, thì sang chương thứ
hai đã là Anphôngxơ và đến chương thứ ba thì lại hóa ra Guytxtavơ.
Nghèo túng và ăn diện là hai tên quân sư tai hại; một tên gắt mắng, một
tên dỗ ngọt các cô gái bình dân xinh đẹp thường nghe cả hai thì thầm bên
tai mình, mỗi tên một cách. Và những ai giữ mình không vững đều xiêu
lòng. Từ đó sinh ra sa ngã và bị người ta ném đ
á,
bị người làm tình làm tội bằng cách đem so với cái rạng rỡ của con
người trinh bạch không với tới nổi. Chao ôi! Nếu Đức mẹ đồng trinh cũng
đói khát?

Phavurit
đã ở bên Anh, vì thế Dêphin và Đalia phục nàng lắm. Từ lâu, nàng đã có
chỗ ở riêng. Cha nàng là một ông giáo già dạy toán, người cộc cằn và
khoác lác, chưa từng lấy vợ và dù tuổi già vẫn phải đi dạy giờ ở các tư
gia. Hồi còn trẻ, một hôm ông ta trông thấ
y
chiếc áo dài của cô gái hầu phòng mắc vào miếng sắt chắn than ở lò
sưởi, sự việc ấy khiến ông dâm ra phải lòng cô gái. Kết quả sinh ra
Phavurit. Thỉnh thoảng Phavurit gặp bố mình, ông cụ chào con một cách
trịnh trọng.

Một
buổi sáng, một bà cụ có vẻ giả tu, vào nhà nàng và bảo: “Cô không biết
tôi phải không?” – Không. – “Ta là mẹ mày”. Xong bà ta mở tủ thức ăn,
lôi các thứ ra uống rồi ăn, lại cho khuân tới một chiếc đệm rồi ở lại
luôn. Bà mẹ tính càu nhàu và ngoan đạo ấy không bao giờ chuyện trò gì
với Phavurit, có khi suốt mấy giờ không nói một lời nào, nhưng sáng,
trưa, tối, bữa nào cũng ăn như hùm như hổ, ăn xong lại xuống ngồi lê ở
nhà người gác cổng và nói xấu con gái mình.

Về
Đalia, cái gì đưa đẩy Đalia đến với Lichtôliê, chưa biết chừng đến với
những anh chàng khác nữa và đến cảnh ăn không ngồi rồi? Đó là bộ móng
tay hồng quá xinh xắn của nàng. Làm sao bắt nổi những ngón tay ấy lao
động? Mà muốn giữ đức hạnh thì không nên thương tiếc những bàn tay. Còn
Dêphin, cái lối nói “Vâng, thưa ông” tinh nghịch và mơn trớn của này đã
làm Phamơi say đắm.

Bốn
chàng trai chơi với nhau nên bốn cô gái cũng trở thành bạn thân của
nhau. Những cuộc tình duyên như thế luôn luôn kéo theo những tình bạn
như thế.

Khôn
là một đường, còn ngoan đạo lại là một đường. Chứng cớ là, sau khi đã
dè dặt về việc các cặp tạm bợ này ăn ở với nhau, vẫn phải cho là
Phavurit, Dêphin và Đalia là những cô gái khôn, còn Phăngtin là một cô
gái ngoan.

Ngoan,
thiên hạ có cho thế là ngoan không? Còn Tôlômiet thì sao? Xalômông thì
cho tình yêu cũng dự phần trong đức hạnh. Chúng tôi chỉ xin nói tình yêu
của Phăngtin là mối tình đầu, mối tình duy nhất, mối tình chung thủy.

Phăngtin là người duy nhất không bị xưng hô anh em chung chạ.
Phăngtin là một bông hoa mọc
lên từ trong quần chúng. Ở trong bóng tối dày đặc nơi đáy sâu xã hội
nhô lên, nàng quả là một người không tên tuổi, không ai biết. Nàng sinh ở
cảng Môngtơrơi. Cha mẹ là ai, ai biết? Không ai thấy nàng có cha mẹ.
Người ta gọi nàng là Phăngtin. Sao lại Phăngtin? Cũng không thấy nàng có
tên nào khác. Khi nàng sinh ra vẫn còn chế độ Đốc chính (Một chế độ
chính trị ở Pháp thời cộng hòa đệ nhất, sau cách mạng 1789. Trong chế độ
này, quyền chấp chính trung ương ở trong tay năm vị đốc chính).
Nàng
không có tên họ, vì nàng không có gia đình. Nàng cũng không có tên
thánh vì lúc bấy giờ làm gì còn nhà thờ nữa. Thuở nàng còn là một con bé
đi chân không trên hè phố, khách qua đường ai muốn gọi tên nàng là gì
thì gọi. Nàng hứng lấy một cái tên cũng như hứng nước mưa từ trên trời
rơi xuống. Người ta gọi nàng là con bé Phăngtin. Chẳng có ai biết gì hơn
nữa. Ấy, một sinh mệnh con người đã được bước vào đường đời như thế
đấy! Năm lên mười, Phăngtin rời bỏ thành phố đi ở cho một gia đình trung
nông ở ngoại thành. Đến mười lăm tuổi, nàng lên Paris để “sinh cơ lập
nghiệp”. Phăngtin rất đẹp. Nàng có giữ mình cho trong trắng mãi. Tóc
nàng vàng óng; răng nàng rất đều. Nàng cũng có vàng ngọc làm của riêng
như ai, nhưng vàng của nàng xếp trên mái tóc, ngọc của nàng giắt ở sau
môi.

Nàng lao động để sống. Và cũng để sống, vì trái tim cũng cần yêu, nên nàng yêu.
Nàng yêu Tôlômiet, đây chỉ
là một thói quen phong nguyệt nhưng đối với Phăngtin, Phăngtin lại yêu
say mê. Khu Latinh, nhan nhản những sinh viên và những cô thợ lơi lả, là
nơi chững kiến buổi đầu của mối tình thơ mộng ấy. Bao nhiêu cuộc tình
duyên đã buộc vào rồi lại cởi ra ở đây. Qua các nẻo đường ngóc ngách,
Phăngtin cũng đã lẩn tránh Tôlômiet mãi, nhưng lẩn tránh thế nào để cho
rồi cũng gặp nhau. Thật vậy! Có một cách tránh nhau mà chẳng khác gì tìm
nhau.

Cho nên rút cục, thiên tình sử vẫn bắt đầu.
Blasơven, Lichtôliê, Phamơi, Tôlômiet họp thành một nhóm do Tôlômiet cầm đầu. Tôlômiet là linh hồn của nhóm.
Tôlômiet là điển hình cổ
điển của anh sinh viên lớn tuổi. Hắn giàu, hằng năm có đến bốn ngàn
phơrăng lợi tức. Ai có một gia sản như thế tức thì trở thành một đầu đề
để bàn tán cho khu sinh viên. Tôlômiet là một tay ăn chơi đứng tuổi, vẻ
người trông đã sọm. Mặt hắn đã nhăn nheo, răng có vài chiếc rụng. Đầu
hắn đã có dạng hói, nhưng hắn vui vẻ: Ba mươi hói tóc, bốn mươi trọc lóc
đầu gối. Ăn uống, hắn đã thấy khó tiêu, một bên khóe thường chảy nước
mắt. Tuổi xuân càng tàn, hắn càng châm ngọn lửa hoan lạc. Răng hắn
khuyết, những chuyện khôi hài của hắn không thiếu; tóc hắn rụng, hắn
càng nô đùa nhiều hơn; kém sức khỏe, hắn thay bằng tính mỉa mai châm
biếm. Con mắt ướt rượt nước mắt của hắn lại luôn luôn cười cợt. Cơ thể
hắn tiều tụy nhưng hắn hớn hở tươi cười. Tuổi thanh xuân của hắn tàn tạ
quá sớm, nhưng nom hắn vẫn đường hoàng, hắn tháo lui có trật tự, tháo
lui mà cười khanh khách, người ngoài chẳng ai biết đâu vào đâu. Trước
hắn đã viết một vở kịch rạp hát không nhận diễn. Một đôi khi hắn cũng
làm mấy câu thơ vớ vẩn.

Ngoài ra, hắn còn hoài nghi
tất cả, hoài nghi một cách cao đạo. Nhờ thế, hắn rất có uy tín đối với
bọn ngu hèn. Tóm lại, vì hói và mỉa đời, hắn được tôn làm trùm, Iron là
một chữ tiếng Anh có nghĩa là thép. Phải chăng Ironie từ tiếng ấy mà ra (Ironie tiếng Pháp có nghĩa là tính mỉa mai, nói mát).

Một hôm Tôlômiet kéo ba bạn ra một chỗ, giơ tay làm hiệu như một bậc tiên tri, rồi nói:
- Đã một năm rồi, lũ các con
Phăngtin, Đalia, Dêphin, Phavurit cứ vòi chúng ta làm quà cho chúng một
cái gì bất ngờ. Chúng mình cũng đã trịnh trọng hứa hẹn. Chúng nó cứ nói
đến mãi, nhất là với tớ. Ở Naplơ, các bà già, thường kêu gọi thánh
Giangviê: Hỡi gương mặt vàng vọt hãy làm phép lạ đi (Nguyên văn tiếng Ý: Faccia gialluta, fa o miracolo).
Ở đây chúng nó cũng thế. Chúng nó cứ nhắc đi nhắc lại mãi: “Anh
Tôlômiet, thế bao giờ anh đề ra được cái món bất ngờ ấy?” Phần thì ở nhà
cứ viết thư giục chúng mình mãi. Hai đầu đều lải nhải. Tớ, tớ cho là cơ
hội đã đến. Thế này này”.

Nói đến đây,Tôlômiet hạ thấp
giọng, bí mật thầm thì một chuyện gì chắc là thú vị lắm cho nên bốn cái
miệng đều toét ra cười khoái trá. Blasơven kêu lên:

- Đó mới thật là một sáng kiến.
Cả bọn kéo vào một quán rượu mịt mù khói thuốc lá tiếp tục bàn tính kế hoạch.
Kết quả hội nghị là bốn chàng trai cùng mời bốn cô thiếu nữ dự một cuộc vui tưng bừng ngày chủ nhật sau đấy.


III


TAY TƯ VÀ TAY TƯ


Trai sinh viên rủ gái lẳng
lơ về đồng quê chơi như thế nào hồi bốn mươi lăm năm về trước, ngày nay
khó mà hình dung được. Những vùng chung quanh Paris nào còn như xưa! Bộ
mặt của cuộc sống ngoại thành đã hoàn toàn biến đổi từ nửa thế kỷ nay;
nơi ngày xưa xe bò lóc cóc thì nay đã có xe lửa; chỗ ngày xưa thuyền gỗ
qua lại thì nay đã có tàu thủy; ngày nay mà gọi Phêcăng thì cũng như xưa
gọi Xanh Cơlu. Với Paris năm 1862, ngoại ô là cả nước Pháp.

Bốn
cặp tình nhân rủ nhau tận hưởng mọi thú vui của đồng ruộng có thể có
được hồi bấy giờ. Lúc ấy vừa vào dịp nghỉ hè, bữa đó là một ngày mùa ấm
áp, trong sáng. Hôm trước, Phavurit, người độc nhất biết chữ, nhân danh
cả bọn bốn chị em, viết cho
Tôlômiet như sau: “Đi sớm thú nắm”.
Vì thế mọi người đều dậy từ năm giờ sáng. Họ đáp xe ngựa đến Xanh Cơlu,
nhìn dòng thác khô cạn và tặc lưỡi: “Chà, cái này mà có nước thì chắc
đẹp lắm đây”. Họ ăn sáng ở hiệu Đầu đen, nơi này lúc ấy Catxtanh chưa
đặt chân đến. Họ bỏ tiền chơi phi ngựa giật vòng, dưới các hàng cây xen
kẽ chỗ bể nước. Rồi leo lên tầng tháp Điôgien. Rồi quay số ăn bánh ngọt
đầu cầu Xevơrơ. Qua Puytô thì hái hoa từng bó. Đến Nơidi lại mua sáo
thổi. Còn bánh kẹp thì đến đâu cũng chén. Thật là sung sướng nhất đời.

Các
cô gái cười cười nói nói, ríu rít như một bầy chim sổ lồng. Thật như
ngây như dại. Chốc chốc các cô lại tát yêu một cái vào má các cậu con
trai. Chao ôi! Cái tuổi trẻ say mê! Những năm tháng vô vàn quí mến! Cánh
chuồn rung động! Ôi! Anh bạn, dù anh là ai anh có nhớ chăng? Đã lần nào
anh băng qua bụi rậm, vừa đi vừa rẽ cành để khỏi vướng vào mái tóc xinh
của ai đang lần bước theo sau anh chưa? Đã lần nào anh vừa cười vừa
trượt trên triền cỏ ướt đẫm nước mưa cùng với người anh yêu, mà nàng thì
cầm tay anh giữ lại và kêu lên nũng nịu: “Trời ơi! Đôi giày mới toanh
của em! Anh xem kìa, nó ra hình thù gì thế này!”.

Xin
nói ngay là chuyện gặp mưa vừa thích vừa khó chịu như vậy không xảy ra
với đám người hớn hở này, mặc dù lúc ra đi, Phavurit đã trịnh trọng và
lấy giọng từ mẫu bảo mọi người: “
Có sên bò ra lối đi, điềm trời mưa các con ạ”.

Cả bốn cô đều xinh một cách
kỳ lạ. Một nhà thơ cổ điển dễ thương, có tiếng hồi bấy giờ là ông cụ
Labut, trong tư thất của mình cũng đã có một Tây Thi, thế mà buổi sáng
hôm ấy, thơ thẩn dưới rặng dẻ vườn Xanh Cơlu trông thấy bốn cô đi ngang
qua lúc mười giờ, ông liền nhớ đến ba cô trong tranh “Ba mỹ miều” và kêu
lên: Thừa mất một. Phavurit, người yêu của Blasơven, cô chị cả hai mươi
ba tuổi, chạy lên trước. Nàng luồn cành nhảy, phóng bừa qua các bụi
rậm, dẫn đầu cuộc vui, hăng như một cô tiên núi. Dêphin và Đalia lại
không rời nhau nửa bước. Chẳng phải vì thân nhau mà chính vì cả hai đều
hơi điệu như nhau. Điều tình cờ là hai nàng đều đẹp, nhưng người nọ phải
đứng bên cạnh người kia, người này bổ sung cho người nọ thì sắc đẹp của
mỗi người mới bật nổi thêm lên. Hai người kề vai nhau, dáng điệu mơ
màng. Dạo ấy những tập ảnh kỷ niệm (Nguyên văn tiếng Anh: keepsakes)
đầu tiên mới ra đời cái buồn vô cớ đang nảy nở trong chị em, cũng như
về sau cái sầu Bairơnlan tràn trong nam giới, cho nên đầu tóc của phụ nữ
cũng bắt đầu liễu rủ (Byron: thi hào Anh, thơ sôi nổi, đau thương.
Bairơn tình nguyện sang giúp sau cuộc khởi nghĩa của dân tộc Hy Lạp
chống bọn thống trị Thổ và hy sinh 1788-1824).
Dêphin và Đalia thì
đầu tóc đều uốn thành búp cuộn tròn. Lichtôliê và Phamơi đang cãi nhau
về các giáo sư của mình thì giảng giải cho Phăngtin hiểu ông Đenvanhcua
khác ông Blôngđô như thế nào.

Blasơven thì có vẻ sinh ra chỉ để nâng tấm khăn san quàng lệch choPhavurit ngày chủ nhật.
Tôlômiet đi sau rốt, dáng
người cao hơn hết thảy cả bọn. Chàng hết sức vui vẻ nhưng ai cũng cảm
thấy ở chàng con người điều khiển; chàng vui tươi mà có cái gì độc đoán
đấy: chỗ làm dáng chủ yếu của chàng là cái quần chân tượng vải Nam Kinh
màu gạch non, có dây choàng từ bàn chân lên bằng đồng bện chéo: trên tay
một chiếc ba toong bằng mây to bự giá đến hai trăm phơrăng và trên môi
một vật khá kỳ lạ: một điếu xì gà. Chàng cho là chẳng có gì thiêng liêng
sất và chàng chẳng từ một thứ gì, kể cá hút thuốc. Anh em bảo: “Cái
thằng Tôlômiet này, đặc biệt thật. Coi cái quần nó có hắc không! Cừ khôi
thật!”

Riêng Phăngtin nàng vui thật
sự. Hàm răng tuyệt mỹ của nàng, chắc hẳn Trời giao cho cái chức năng là
cười. Chiếc mũ rơm nhỏ đính quai dài và trắng, nàng thích cầm tay hơn
là đội. Mớ tóc dày vàng óng rất dễ sổ, nàng phải luôn luôn cặp lại, cái
mớ tóc thường xuyên như muốn bồng bồng, tung bay ấy, hình như đặt trên
đầu nàng tiên Galatê để cho nàng chạy dưới cánh liễu thì mới phải. Đôi
môi hồng thỏ thẻ như giọng oanh. Khóe miệng xếch lên, dáng say sưa,
giống như các mặc giả thời cổ, nhìn vào có vẻ
gì như khêu gợi những ý nghĩ sỗ sàng; nhưng hàng mi dài đen thẫm lại rủ
cái bóng e ấp thùy mị xuống làn môi khóe miệng và cự tuyệt mọi cái ồn ào
ở những chỗ này. Cách ăn mặc của nàng như có cái gì bừng bừng và thánh
thót. Nàng mặc cái áo len màu hoa cà, chân đi đôi giày đế cao màu nâu
đậm có ánh sáng, mấy dây buộc đan thành những chữ X trên mặt bít tất
trắng, mỏng và thưa. Nàng khoác thêm một chiếc áo đuôi én bằng len mút,
kiểu này là sáng kiến của dân Macxây, họ đặt tên là áo “hé thử”, theo
cách xuyên tạc ở ngoài phố của chữ “hè thu” (Nguyên văn canezou, đọc xuyên tạc những chữ quinze aout),
có nghĩa là thời gian trời tối, ấm áp, đang trưa. Ba cô kia, như chúng
tôi đã nói, ít rụt rè hơn, thì đều mạnh dạn mặc áo hở vai, trên mũ lại
đầy hoa: mùa hè, cách ăn mặc như vậy trông có duyên thật nhưng cũng
nhiều khiêu khích. Bên cạnh lối trang điểm táo bạo ấy, chiếc áo hè thu
trong suốt của Phăngtin tóc vàng vừa kín đáo vừa e ấp, mở cũng như có mà
khép cũng có, thật đáng coi như một sáng tạo có ý nghĩa thách thức của
khoa lịch sự. Và cái câu lạc bộ tình yêu có bà chủ tịch là nữ tử tước
đất Xét, có cặp mắt xanh màu nước biển, chắc hẳn sẽ tặng giải thưởng làm
đỏm cho cái áo hè thu ấy vì nó đóng góp nhiều cho sự tiết hạnh. Té ra ở
đời có khi thế: ngây thơ lại là thành thạo nhất.

Nhìn Phăngtin đằng trước thì
lộng lẫy, nhìn một bên thì thanh tao. Cặp mắt xanh thăm thẳm, mi trên
đầy đặn. Đôi chân thon và chắc, cổ tay cổ chân uyển chuyển. Nước da
trắng mịn, đây đó thoáng lộ những mạch máu màu da trời. Gò má thơ ngây
tươi mát, cái cổ tròn khỏe như tượng Giuynông, cái gáy chắc và mềm mại.
Hai vai như do bàn tay Cutxtu nhào nặn, giữa lõm một lúm đồng tiền đến
là say sưa, có thể thấp thoáng trông thấy dưới lần áo mỏng. Một nét vui
tươi pha chút mơ mộng. Nhình chung, mọi vẻ đều như tạc và vô cùng ý nhị.
Ấy, Phăngtin như thế đó. Dưới mớ quần áo vải vóc kia là một pho tượng
và trong pho tượng là một tâm hồn.

Phăngtin đẹp nhưng không hề
biết mình đẹp. Họa chăng có một đôi người hay suy tưởng, những đồ đệ âm
thầm của cái đẹp, thường đem mọi vật ở đời so với cái tuyệt mỹ, thì mới
hé thấy cô thợ bé nhỏ này, qua cái duyên dáng trong suốt của người con
gái Paris, cái nét hài hòa thiêng liêng thời cổ. Cô gái hèn mọn này thế
mà con nòi. Nàng đẹp ở hai phương diện: phong cách và nhịp điệu. Phong
cách là hình thức lý tưởng còn nhịp điệu là sự vận động của lý tưởng ấy.

Chúng tôi đã nói Phăngtin là niềm vui, nhưng Phăngtin là sự trinh bạch.
Kẻ nào quan sát nàng một
cách chu đáo sẽ thấy ở người nàng, từ tất cả cái say mê của tuổi xuân,
của nắng hạ, của tình yêu, đều toát lên một vẻ dè dặt, khiêm tốn không
gì thắng mổi. Nàng còn giữ chút ít ngạc nhiên. Chính cái ngạc chiên
trong trắng ấy là chỗ phân biệt Pxisê và Vệ nữ. Phăngtin có những ngón
tay trắng và thon của một đạo cô đang lấy trâm vàng cời tro giữ ngọn lửa
thiêng. Dù nàng chẳng hề từ chối một cái gì đối với Tôlômiet – cái điều
ấy sẽ rõ – gương mặt nàng lúc thảnh thơi vẫn muôn vàn băng tuyết. Đôi
khi một thứ tự trọng nghiêm chỉnh và hơi khắc nghiệt, bỗng dưng chiếm
lấy người nàng. Vẻ vui tươi tự nhiên biến mất, khuôn mặt đang rạng rỡ
bỗng đổi sang trầm ngâm, rười rượi. Những lúc ấy trông nàng, người ta
phải lấy làm lạ lùng và ái ngại. Cái dáng nghiêm trang đột ngột ấy, có
khi nghiêm khắc rõ rệt, na ná như vẻ kiêu hãnh của một nữ thần. Vừng
trán, sống mũi, cái cằm có sự cân đối của đường nét, khác hẳn với sự cân
đối hình dáng, làm cho khuôn mặt nàng đều đặn, hài hòa. Ở quãng trống
rất đặc biệt giữa mũi và môi, nàng hãy còn giữ cái nếp kín đáo rất dễ
thương, cái dấu hiệu bí ẩn của sự tiết trinh. Chính cái nếp ấy đã từng
khiến cho Bacbơrut đâm phải lòng một tượng nữ thần Đian tìm thấy trong
di chỉ Icôn.

Tình yêu là tội lỗi: vâng – Nhưng Phăngtin lại là sự trong trắng nổi lên tội lỗi.


IV

TÔLÔMIET VUI QUÁ HÁT MỘT BÀI HÁT

TÂY BAN NHA


Cả cái ngày hôm ấy từ đầu
chí cuối chỉ có bình minh. Vạn vật vui như hội. Vườn cảnh Xanh Cơlu thơm
ngát ngọn gió sông Xen nhẹ rung lá biếc, cành cây nhún nhẩy múa may.
Những con ong vàng xông lên cướp nhụy hoa nhài. Từng đàn bướm nô đùa
trong cỏ dại. Trong cảnh vườn ngự tôn nghiêm có cả một lũ chim trời du
đãng.

Bốn cặp thanh niên hòa mình trong ánh nắng, trong lúa đồng, trong hoa cỏ, cây lá và cùng đua khoe thanh sắc.
Trong khung cảnh thiên
đường, họ nói, họ hát, họ chạy nhảy, họ săn bướm, họ hái hoa bìm, họ dầm
những đôi chân mang bít tất hồng vào cỏ ướt. Tươi lành, điên dại, dễ
dãi, các cô nhận đây đó những cái hôn của cả bọn, trừ Phăngtin, nàng vẫn
giữ cái dáng phản kháng âm thầm, cái vẻ mơ màng cách biệt, vì nàng yêu!
Phavurit bảo nàng: “Mày lúc nào cũng thế nào ấy!”

Họ vui như thế đó. Những lứa
đôi đang yêu và sung sướng mà đi qua nơi nào thì ở đó thiên nhiên và sự
sống dường như cũng bị lay động sâu xa và mọi vật đều sôi trào âu yếm
và ánh sáng. Ngày xưa có một nàng tiên chỉ vì thương những người bạn
tình mà làm ra cho họ bãi cỏ và chòm cây. Từ đó mà có cái trò muôn thuở
“ngồi bụi cây” của những cặp tình nhân, cái trò luôn luôn diễn đi diễn
lại cũng như trò “học trong bụi cây” (Nguyên văn: école buissonière, thành ngữ, có nghĩa là trường trong bụi)
luôn tồn tại chừng nào trên đời còn có bụi cây và học trò. Cũng từ đó
mà mùa xuân mới được các nhà tư tưởng mến yêu. Quí tộc xũng như dân đen,
quận công cũng như không nhà, trong triều cũng như ngoài quận, tất cả
đều làm tôi cho nàng tiên ấy. Người ta cười, người ta tìm nhau, trong
không khí dường như có ánh sáng thần tiên rực rỡ. Chao ơi! Con người
biến đổi biết bao khi người ta yêu! Một anh làm công quèn cũng tưởng
mình như được lên tiên. Và những lúc đùa reo đuổi bắt nhau trên nội cỏ,
bất thần tóm được lưng nhau; lời cục cằn thành điệu du dương, một ngữ
khí, một âm thanh cũng tràn đầy yêu dấu; những lúc một quả anh đào mồm
nọ cướp của mồm kia, tất cả các phút giây ấy đều rực sáng và đi vào cõi
thần tiên chói lọi. Các cô thiếu nữ xinh tươi quả đã đem tất cả hương
sắc của mình ra phung phí một cách say sưa. Cảnh tượng đó người ta tin
là không bao giờ chấm dứt. Triết gia, thi sĩ, họa sĩ ngắm nhìn những
cảnh mê ly ấy mà đành chịu bất lực vì chúng nó chói lóa cả mắt. Oattô
kêu: đây là cảnh “Rủ nhau ra đảo tình yêu”; Lăngcơre, nhà họa sĩ bình
dân, đành ngắm họ như bay bổng tận mây xanh; Điđơrô thì dang tay chào
đón tất cả các cuộc tình duyên ấy, còn Đuyêchphê lại tả thêm vào cảnh đó
mấy vị thầy mo.

Cơm trưa xong cả bọn kéo
nhau vào khu vườn ngự xem thứ cây lạ vừa mới đưa từ Ấn Độ sang. Cây tên
gì ngày nay chúng tôi không nhớ ra, chỉ biết là hồi đó cả Paris đều đến
Xanh Cơlu để xem. Giống cây kỳ dị ấy thân nhỏ, thong thong, trông rất
xinh, chẳng có chiếc lá nào, toàn một mớ vô số là cành cây rối bù, nhỏ
như sợi chỉ, phủ đầy một lượt không biết cơ man nào là hoa trắng li li,
nom giống như một đầu tóc rắc phấn trắng. Ngày nào cũng khối người vây
quanh trầm trồ ngắm nghía.

Xem cây xong, Tôlômiet vụt
kêu lên: “Tớ cho các cậu đi lừa nhé!” Mặc cả với người cho thuê lừa đâu
vào đấy, cả bọn ngồi lừa trở về theo lối Văngvơ và Itxi. Đến Itxi xảy ra
một việc. Vườn cây, tài sản quốc gia, lúc ấy thuộc quyền sở hữu của
người chủ thầu quân nhu Buốcganh, hôm ấy ngẫu nhiên cổng lại mở toang.
Họ đi thẳng vào vườn, đến thăm hình nhà ẩn sĩ trong hang đá, vào phòng
trưng bày các loại gương, thử chiếu để xem các hiện tượng, các sắc màu
kỳ lạ. Cái phòng trưng bày khá nổi danh vì những hình ảnh khêu gợi dục
tính này chẳng qua cũng là thứ cần câu tiền rất xứng với một tay làm
tiền trở thành triệu phú hoặc một tên bất lương trở thành vị thần vườn
tược. Họ cùng đến chơi đưa võng chỗ chiếc lưới căng giữa hai cây dẻ. Các
cô gái lần lượt leo lên võng. Tôlômiet cũng lần lượt ru. Lưới võng đưa
mạnh, chiếc váy cũng tung bay. Cả bọn phá lên cười. Cái cảnh quần hồng
phấp phới này, giá có Gơrơdơ thì nhà họa sĩ chúng ta cũng chộp được một
nếp xiêm trong quần thanh thú. Tôlômiet, cái anh chàng có ít nhiều máu
Tây Ban Nha trong người, vì Tuludơ có họ với một hành phố bên Tây Ban
Nha là Tôlôda, mà chàng thì là người Tuludơ, Tôlômiet vừa đưa võng vừa
cất tiếng hát theo điệu buồn buồn một bài dân ca cổ mà cảm hứng chắc bắt
nguồn từ hình ảnh một thiếu nữ xinh đẹp tung bay trên chiếc thừng chăng
giữa hai hàng cây: (Trong nguyên tác bài hát này lời bằng tiếng Tây Ba Nha)


Anh là người ở quê xa

Vì tình nên phải bôn ba với tình

Đu bay tung váy cô mình

Da em băng tuyết cho anh thẫn thờ

Hồn dâng trong mắt ước mơ

Riêng Phăngtin nàng từ chối không đu võng. Phavurit thầm thì giọng khá chua chát: “Tớ không thích kiểu làm điệu như thế”.
Họ bỏ lừa xuống thuyền. Lại
một dịp vui mới. Họ ngồi thuyền qua sông Xen, rồi từ Patxi đi bộ về
quảng trường Ngôi Sao. Mọi người còn nhớ, họ thức dậy từ năm giờ sáng,
thế mà Phavurit cứ bảo: Mặc kệ, chủ nhật làm gì có mệt mỏi, ngày chủ
nhật cái mệt cũng nghỉ việc. Vào quãng ba giờ chiều, bốn cặp tình nhân,
say mềm hạnh phúc, còn chơi trò trượt dốc ở cái núi yên ngựa, một công
trình xây đắp kỳ dị nằm trên ngọn đồi Bôgiông, mà đường nét vòng vèo
nhìn thấy nhấp nhô trên các ngọn cây quảng trường Săng Êlidê.

Chốc chốc Phavurit lại kêu:
- Thế cái món bất ngờ đâu? Đây muốn xem cái bất ngờ ấy.
Tôlômiet bảo:
- Hãy đợi tí nữa!





Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:26 pm

V

Ở QUÁN BÔNGBACĐA



Chơi
chán ở núi yên ngựa, họ nghĩ đến cơm chiều và cả bọn tám người xem
chừng đã mệt giạt vào quán Bôngbacđa. Quán này là chi nhánh đặt ở Săng
Êlidê của chủ hiệu ăn nổi tiếng Bôngbacđa có cửa hàng chính ở phố Rivôli
bên cạnh ngõ Đơlócmơ.

Một
căn buồng rộng, xấu xí, trong cùng có ngăn kê giường. Chủ nhật quán
đông nghịt, cả bọn đành phải bằng lòng một chỗ nghỉ chân vậy. Buồng cũng
có hai cửa sổ có thể đứng ngắm cảnh bến
sông
bên kia rặng cây. Ánh hè rực rỡ phớt qua khung cửa. Hai cái bàn, một
cái để mũ nón đàn ông, đàn bà lẫn lộn với các bó hoa sặc sỡ chất cao như
núi, một bàn bày loạn xạ nào thức ăn, nào đĩa không, nào chai cốc, nào
cốc bia, hồ rượu. Bốn cặp ngồi chung quanh.
Trên bàn hơi lộn xộn, dưới bàn cũng chút ít rối ren. Đúng như lời thơ Môlie:



Dưới bàn ăn có tiếng gì kinh quá

Chân này đạp, chân nọ khoèo, loạn xạ!

Âu, tới bốn giờ rưỡi chiều thì cuộc vui diễn bắt đầu từ năm giờ sáng đã đưa đến chỗ đó. Trời về chiều, mọi người bụng đã no nê.
Quảng trườngSăng
Êlidê đầy nắng, người qua lại như mắc cửi, đúng là vinh quang, chỉ gồm
có bụi và ánh sáng. Mấy con ngựa cẩm thạch của Macli như đang hí và lồng
lộn trong bụi vàng. Xe tứ mã qua qua lại lại. Một đội vệ binh quân phục
rực rỡ, kèn đồng dẫn đầu, rẽ đường xuống đại lộ Nơidi. Lá cờ trắng,
phơn phớt hồng trong ánh hoàng hôn, phấ
p phới
trên vòm nóc cung Tuylơri. Quảng trường Hòa hợp nay lại lấy tên cũ là
quảng trường Lui XV, người đi dạo đông nghịt. Nhiều người ra vẻ đắc chí,
lủng lẳng chiếc hoa huệ bằng bạc dính vào một cái dải bằng sa trắng gợn
vân. Cái dải trắng này mãi đến năm 1817 hãy còn thấy lác đác ở cúc áo
một số người. Đây đó một nhóm người qua đường dừng lại, vây quanh một
toán em gái nhỏ đang múa hát và vỗ tay tán thưởng. Các em gửi vào gió
một điệu hát nổi tiếng hồi bấy giờ của người phái Buốcbông dùng để mạt
sát cái chính quyền Bách nhật mà điệp khúc là:



Trả cho ta bố xứ Găng của ta



Trả cho ta bố ta

(Bố xứ Găng tức là Lui XVIII. Trong thời kỳ bách nhật, Lui XVIII trốn ở Grand, một thành phố thuộc nước Bỉ)
Từng
đám đông dân ngoại ô súng sính quần áo ngày lễ, có người đeo cả hoa huệ
như bọn thị dân, tản mát khắp các khu vườn hoa, chơi trò phi ngựa giật
vòng hoặc ngồi quay trên lưng ngựa gỗ. Nhiều kẻ khác đang đánh chén. Một
số là thợ nhà in đang học việc, mũ giấy đội đầu, từ xa đã nghe tiếng họ
cười. Tất cả đều hớn hở. Thật là một đời thái bình thịnh trị. Chính hồi
này quận trưởng cảnh sát Ăngơlet, trong bản mật tấu đặc biệt lên nhà
vua về tình hình các vùng ngoại ô Paris, đã kết thúc bằng những lời lẽ
như sau: “Xét cho kỹ, tâu bệ hạ, bọn người ấy chẳng có gì đáng sợ cả.
Chúng nó vô lo và uể oải như mèo. Bọn dân đen các tỉnh mới hay rầy rà
chứ ở Paris thì không. Bọn chúng bé nhỏ quá thể. Tâu bệ hạ, phải hai đứa
chồng lên nhau thì mới cao bằng một anh pháo thủ trong cấm binh. Chẳng
phải lo ngại tí nào về phía bọn dân ngu của thủ đô. Rất đáng để
ý
là từ năm mươi năm nay, vóc người họ cứ thấp dần và ngày nay dân ngoại ô
bé nhỏ hẳn đi so với hồi trước cách mạng. Chúng nó chẳng có gì nguy
hiểm. Tóm lại cái lũ chó đẻ ấy mà ngoan”.

Các
ngài quận trưởng cảnh sát thì làm sao mà tin được mèo có thể hóa thành
sư tử! Ấy thế mà có thật và đó là phép màu của dân chúng Paris. Còn
giống mèo mà bá tước Ăngơlet khinh bỉ đến nước ấy, thật ra lại được các
nền cộng hòa thời đó tín nhiệm. Trong mắt họ, mèo là hiện thân của tự do
và để cho tượng thần Minecvơ không cánh dựng ở Paris khỏi phải trơ vơ,
họ dựng tiếp ở quảng trường Côranhtơ tượng một con mèo khổng lồ bằng
đồng hun. Ngành cảnh sát của chính quyền phục hưng kể cũng ngây thơ, họ
nhìn dân chúng Paris hơi quá “hồng”. Chẳng phải như họ tưởng, dân chúng
Paris không hề là “lũ chó đẻ, mà ngoan”. Dân Aten có vai trò như thế nào
trong người Hy Lạp thì dân Paris cũng có vai trò như vậy trong người
Pháp. Chẳng ai ngủ bì họ, chẳng ai thật tình phù phiếm và lười biếng như
họ, cũng chẳng ra vẻ hay quên bằng họ. Tuy vậy xin ai chớ tin vào đó:
họ có vẻ sinh ra để chẳng thèm lưu ý đến bất cứ cái gì, ấy thế mà khi có
vấn đề vinh quang nêu cao trước mắt thì họ có thể làm tất cả mọi việc
hăng say, không ai sánh kịp. Đưa giáo cho họ, họ sẽ làm nên ngày 10
tháng 8; đưa súng cho họ, họ sẽ có Auxteclit.
Napoleon
lấy họ làm chỗ dựa. Đangtông coi họ là nguồn lực lượng. Tổ quốc lâm
nguy ư? Họ sẵn sàng nhập ngũ. Tự do lâm nguy ư? Họ sẵn sàng cạy đường
lấy đá. Coi chừng! Tóc họ có thể vì căm thù mà dựng ngược ; chiếc áo lao
động của họ có thể biến thành chiến bào. Hãy cẩn thận, bất kỳ phố xá
ngõ ngách nào họ cũng có thể biến thành thiên la địa võng bắt quân thù
phải hạ giáp. Cho nên đến lúc cần thì người dân ngoại ô ấy lại lớn lên,
con người bé nhỏ ấy lại đứng dậy, mắt họ nhìn sẽ dữ tợn, hơi thở họ sẽ
như bão táp và từ lồng ngực mỏng manh của họ sẽ tuôn ra đủ giông tố để
xáo trộn từng dòng khe mạch của dãy Anpơ. Chính nhờ người dân ngoại ô
Paris mà cách mạng, xen lẫn vào các đạo quân, chinh phục châu Âu. Họ
hát, đó là họ vui- Cứ so điệu hát cho vừa tầm với bản chất họ mà xem!
Chỉ được lặp đi lặp lại có bài Cácmanhôn thì họ chỉ lật đổ nổi Lui XVI,
cho họ hát bài Macxâyde họ sẽ giải phóng cả thiên hạ.

Xong
mấy lời ghi chú trên đây bên lề bản báo cáo của Ănggơlet, xin trở lại
với bốn cặp tình. Như trên đã nói, bữa cơm chiều vừa xong.

VI
THƯƠNG YÊU NHAU


Chuyện
phiếm sau bữa cơm, chuyện phiếm về tình yêu đều như nhau, chẳng đâu vào
đâu; chuyện tình yêu thì như mây, chuyện sau bữa cơm thì như khói.

Phamơi
và Đalia khe khẽ hát; Tôlômiet tiếp tục uống rượu; Dêphin và Phăngtin
kẻ cười thành tiếng, người chỉ cười nụ. Lichtôliê lôi cái kèn gỗ mua ở
Xanh Cơlu ra thổi. Phavurit đưa mắt nhìn Blasơven một cách âu yếm và
nói:

- Anh Blasơven, em mê anh.
Thuận đà Blasơven hỏi lại:
- Phavurit này, nếu anh không yêu em nữa thì em làm thế nào?
Phavurit kêu lên:
-
Ấy, đừng nói thế, dù là nói đùa! Em ấy à? Anh mà không yêu em, thì em
tóm lấy anh, em cấu này, em xé này, em thì trát tro vào mặt này và em
gọi cảnh sát nhốt cổ anh lại.

Blasơven mỉm cười, cái cười khoái chí được nghe những lời nịnh nọt. Phavurit tiếp:
- Vâng, em nhất định kêu cứu vệ binh! Em lồng lên phải biết ! Đồ chết tiệt!
Blasơven sung sướng quá, ngả hẳn người trên ghế, nhắm mắt, kiêu hãnh:
Đalia vừa ăn vừa nói nhỏ với Phavurit giữa tiếng ồn ào náo động:
- Mày sùng bái anh Blasơven của mày thật hở?
Phavurit vớ lại cái nĩa cầm lên, cũng đáp khe khẽ:
-
Tao ghét nó. Nó kiệt. Tao thích cái thằng bé trước ở cửa nhà tao kia.
Cậu ấy thế mà hay đáo để mày có biết cậu ta không? Trông có thớ diễn
viên lắm. Tao rất thích bọn diễn viên. Động thấy cậu ta về là bà cụ kêu
lên: “Trời! Còn làm sao mà ở yên được nữa hở trời! Nó lại sắp gào lên
rồi kìa. Này con, con làm mẹ điếc tai nhức óc ơi!” – Thì ra cu cậu chui
vào nhà trong, tìm cái xó cái xỉnh nào trên gác, leo lên được đến đâu là
cứ leo, rồi thì hát hò, ngâm nga, ai còn biết làm cái thứ quỉ gì, nhưng
mà dưới nhà thì nghe rõ mồn một! Cậu ta lại còn chép đơn chép từ gì cho
một tay thừa lại mỗi ngày một phơrăng nữa kia. Bố cậu ta ngày xưa là
chân hát lễ trong nhà thờ Xanh Giăccơ ấy mà. Cậu ấy thế mà hay ra phết.
Một hôm thấy tao nhào bột làm bánh, cậu ta bảo:
“Cô nàng ơi, cô nàng nhào luôn bít tất tay cô mà làm bánh, tớ cũng xin ăn”,
mày tính thế thì cậu ta yêu tao biết chừng nào! Tao cho chỉ có nghệ sĩ
mới nói được một lời như thế. Chà! Cậu ta hay thật. Tao đang mê mệt vì
cái thằng bé ấy đây. Cũng chả sao, tao cứ nói Blasơven là tao sùng bái
hắn ta. Tao nói dối tệ mày nhỉ! Dối thật!

Phavurit ngừng một chốc, rồi nói tiếp:
-
Đalia, mày biết không, tao buồn lắm. Suốt hè chỉ có mưa, còn gió nữa,
gió chẳng chịu thôi gào thét, làm tao phát bực. Anh chàng Blasơven thì
kiệt chết cha chết mẹ, chợ búa gì khổ sở mới có chút ít bơtiboa, chả
biết ăn cái gì. Tao buồn vô cớ mày ạ, tao lên cơn
xplin (spleen tiếng Anh, có nghĩa là bệnh buồn chán vô cớ) như
bên Anh họ nói ấy. Bơ sao mà đắt thế! À này, mày xem, đáng tởm không?
Chúng mình đi ăn uống ở một nơi có cái giường ngủ, kiểu này làm tao chán
đời.

VII

TRIẾT LÝ CỦA TÔLÔMIET


Một vài người hát, bọn còn lại thi nhau chuyện trò bô bô cả phòng ồn ào, huyên náo. Vừa lúc ấy Tôlômiet chen vào:
-
Này, đừng có bạ gì nói nấy và nhanh như nhặt rau thế - anh chàng kêu lên
– Suy nghĩ một ít cho nó có vẻ chứ. Cứ cương mãi thì chả mấy chốc là
trơ ra ngay. “Dục tốc” là bất đạt. Xin quí vị hãy từ từ. Phải oai nghiêm
khi nhậu nhẹt, mà chén thì phải trầm tĩnh; xin các ngài yến ẩm từ từ
cho. Đừng có vội. Cứ xem mùa xuân kia kìa, mùa xuân mà vội thì có mà
cháy đứt đuôi, nghĩa là chết cóng. Chú đào chú mận nào mà hăng dấn lên
một tí là đi đời. Bữa cơm ngon mà hăng quá thì cũng chẳng còn gì là thú
vui tao nhã. Không cần hăng, các vị ạ! Các nhà sành ăn xưa nay đều cũng
ý kiến như thế cả.

Một làn sóng phản đối ngấm ngầm trong cả bọn, Blasơven nói trước:
- Tôlômiet, xin cậu để yên cho chúng tớ.
Phamơi tiếp:
- Đả đảo độc tài!
Lichtôliê hét:
- Quân Bôngbacđa, ăn cho căng bụng và chơi cho hết ga!
- Tuần lễ còn có chủ nhật chứ! – Phamơi nối lời.
- Chúng tớ biết điều độ chứ, - Lichtôliê thêm.
- Tôlômiet – Blasơven bảo – cậu xem tớ tỉnh táo đàng hoàng đây này.
- Cậu tỉnh táo bảo hoàng chứ lị - Tôlômiet đáp.
Bấy
giờ bảo hoàng đang là cái mốt cho nên cậu chơi chữ tầm thường như thế
lại có tác dụng như hòn đá ném xuống ao. Ếch nhái đều câm bặt.

Tôlômiet như người nắm lại được thế điều khiển, lên giọng kẻ cả:
-
Các bạn ạ, hãy bình tĩnh lại, không cần phải hoảng hốt dữ như thế trước
câu đùa từ trên trời rơi xuống ấy. Những cái từ trên trời rơi xuống như
vậy không nhất thiết phải được đón nhận nhiệt tình và trọng vọng. Trí
tuệ bay bỗng thì vãi ra cái trò bông lơn chơi chữ, còn câu đùa câu cợt
thì bạ đâu rơi đó và trí óc đẻ xong cái thứ vớ vẩn như vậy liền chui tụt
lên mây xanh. Một vệt gì trăng trắng mà giáng xuống mõm đá thì làm sao
cấm được đại bàng bay lượn! Cút đi những ai phỉ nhổ cái trò bông lơn
chơi chữ! Tớ quí trọng nó là trong chừng mực nó được việc, có thế thôi.
Tớ biết tất cả cái gì tôn nghiêm hơn hết, cao cả hơn hết trong nhân loại
và có lẽ cả ngoài nhân loại, đều từng chơi chữ. Giêsu Cơrit đã có một
câu bông lơn chơi chữ về thánh Pie. Môidơ cũng về Idác, Etsin thì về
Pôlinit, Cơlêôpat thì Ôctavơ. Nên nhớ rằng câu bông lơn chơi chữ của
Cơlêôpat là có trước trận Actium và giá không có câu ấy thì chẳng ai còn
nhớ đến thành phố Tôrin, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là cái thìa lớn.
Các điều trên đây cũng khá mất thì giờ rồi đấy, bây giờ thì xin trở lại
lời khuyên ban nãy. Các người anh em ạ, tớ nói lại, đừng hăng, đừng ồn
ào, đừng thái quá, ngay trong lời hóm hỉnh, vui đùa, trong say sưa, chơi
chữ. Anh em nghe tớ, tớ thận trọng như Amphiarot, tớ lại có một cái đầu
hói của Xêda:
Cái gì cũng có hạn (Nguyên văn còn có câu La Tinh: Est modus la rebus chơi chữ theo lối rebus cũng phải có hạn). Trò
chơi vặt cũng thế. Mà ăn cũng thế. Các vị phu nhân, các vị thích bánh
kẹp nhân táo, được nhưng đừng ham ăn quá. Ăn bánh kẹp cũng phải có lương
tri và nghệ thuật. Chứng tham ăn sẽ trừng phạt kẻ ăn tham. Cái cổ làm
khổ cái bụng. Trời sinh chứng đầy bụng để dạy khôn cho dạ dày. Và, xin
nhớ giùm cho điều này: mỗi tính ham mê của chúng ta, kể cả yêu đương,
đều có một cái dạ dày mà chúng ta chớ nên cho chứa đầy quá. Bất kỳ cái
gì cũng phải biết kịp thời chấm dứt, phải biết kiềm chế mình lúc tình
thế khẩn cấp, bụng còn thèm đấy nhưng phải khóa cửa nhốt thèm thuồng,
bắt giam thích thú, tự đưa mình đến bót cảnh sát. Kẻ khôn ngoan là kẻ
đến một lúc nào đó biết tự trói mình nhận lỗi. Xin các bạn hãy tin tớ
một tí. Chẳng gì tớ cũng võ vẽ học luật, các lần thi cử rõ ràng là thế
mà. Với lại tớ cũng biết vấn đề chung cứu và vấn đề đương cứu khác nhau
như thế nào: tớ cũng đã bảo vệ một luận án bằng tiếng La Tinh về các
cách xử nhục hình ở La Mã thời xưa, chưa kể hình như tớ sắp đỗ tiến sĩ,
không nhất thiết vì thế mà tớ phải là thằng ngu! Tớ khuyên các bạn nên
ham mê cho chừng mực. Điều đó là thật; cũng như tên tớ là Phêlit
Tôlômiet, tớ không đùa đâu, tớ nói thật. Kẻ nào lúc cần, biết xử trí một
cách dũng cảm và từ bỏ chức vị cao sang của mình như Xinla, hay
Origien; kẻ ấy sung sướng thật!

Phavurit lắng nghe rất chăm chú. Nàng nói:
- Phêlit, chữ hay nhỉ! Mình thích cái tên ấy. Tiếng La Tinh đấy, có nghĩa là thịnh vượng mà.
Tôlômiet tiếp:
-
Các bạn vương hầu bá tước của tôi ơi! Các bạn có muốn miễn sắm giường
cưới, cóc cần tình yêu mà chẳng phải ngứa ngáy trong người tí nào không?
Rất đơn giản. Bí quyết chỉ có thế này: uống nước chanh, tập tành cho
quá một tí, làm việc nhiều, làm việc nặng cho mệt nhoài vào, đừng ngủ
thức cho khuya, tọng vào các thứ nước hơi, nước chát, ngâm các thứ đắng
thứ cay vào, cứ thường kỳ nhịn đói thật nghiêm, nhịn đói cho rạc người
ra, rồi thì tắm nước lã, lấy lá thuốc nịt bụng, buộc mảnh chì, bôi nước
ôxyt chì, xát dấm pha loãng.

- Tớ thì thích đàn bà hơn – Lichtôliê nói.
-
Đàn bà! – Tôlômiet đáp – đừng có tin đàn bà. Khốn thay cho những ai đặt
lòng tin vào trái tim bất thường của người đàn bà! Đàn bà là quanh co,
quỉ quyệt. Họ ghét rắn là vì họ ghen với kẻ cùng loại đó thôi. Rắn là
cái cửa hiệu trước mặt hiệu mình.

- Tôlômiet, cậu say rồi – Blasơven kêu lên.
- Cóc say! – Tôlômiet cãi.
- Vậy thì phải vui lên – Blasơven bảo.
- Tớ đồng ý – Tôlômiet đáp lại.
Chàng rót đầy một cốc rượu rồi đứng lên:
- Hoan hô rượu! Bây giờ, hỡi Bacchus, ta hãy uống đi (Nguyên văn: Nume te, Bacche canam! Bacchus: Thần rượu, theo thần thoại Hy Lạp). Xin lỗi các cô, tôi nói tiếng
Tây Ban Nha. Chứng cớ đây này: dân xứ nào có cái đựng rượu xứ ấy. Thùng
phuy ở Cattidơ chứa mười sáu lít, thùng tô nô ở Alicăng chứa mười hai, ở
Canari đến hai mươi lăm, ở Balêa hai mươi sáu, cong chiếc ủng của sa
hoàng Pie thì những ba mươi. Ông vua Nga vĩ đại ấy, muôn năm ông ta,
nhưng chiếc ủng của ông ta còn vĩ đại hơn, vậy muôn năm chiếc ủng! Thưa
các vị phu nhân, đây xin có một lời khuyên tri kỷ, nếu các phu nhân thấy
hay hay thì xin các phu nhân
cứ nhầm người láng giềng cho.
Tình yêu bản chất nó là lang thang. Yêu đương chốc lát thì chuyện gì
ngồi chết một chỗ cho mụ người đi như một bõ già, gối chân gối tay chai
sần lên tất cả. Đã là chuyện ong bướm thì dại gì, cứ bay lượn vui vẻ!
Người ta bảo: nhầm là thuộc tính của tình yêu. Thưa các vị phu nhân, đây
yêu tất cả các vị. Dêphin ơi, à Giôdêphin ơi, con người vẻ mặt sau mà
nhàu nát quá thế, em sẽ đẹp bao nhiêu nếu em không bị lệch. Mặt em rất
đẹp mà tưởng tượng như có ai vô tình ngồi phịch lên trên em ơi! Còn
Phavurit, hỡi hằng nga, tiên nữ ơi! Các nàng có biết không? Một hôm
Blasơven lội qua suối, anh thấy một cô gái xinh đẹp xắn quần cao ống để
hở cặp đùi lồ lộ. Cái màn đầu là lạ ấy, anh chàng ta thích, thế là yêu.
Nàng tiên nữ ấy tức là Phavurit. Phavurit ơi! Em có đôi môi đẹp như
tranh. Ngày xưa ở Hy Lạp có một họa sĩ tên là Ơphôriông. Ông ta được
mệnh danh là nhà họa sĩ vẽ môi. Chỉ có ông ấy mới xứng đáng được vẽ cặp
môi em. Tôi nói câu này nhé! Trước em, chẳng có ai xứng đáng là công
trình sáng tạo của Chúa cả. Em chính là người sinh ra để nhận quả táo
như Vệ nữ hay để cắn vào quả táo như Evơ. Có em, nhan sắc mới ra đời.
Tôi vừa nói đến Evơ chứ gì? Em là người sinh ra Evơ đó. Em đáng được cấp
bằng phát minh ra con người đẹp vậy. Phavurit ơi, tôi thôi không gọi em
bằng em nữa, vì tôi đang từ lĩnh vực thơ ca chuyển sang văn xuôi. Lúc
nãy cô nhắc đến tên tôi, điều đó làm tôi cảm động lắm; nhưng cho dù
chúng ta là người như thế nào đi nữa, chúng ta cùng đừng tin vào cái
tên. Cái tên chẳng đúng tí nào. Tôi tên là “Thịnh vượng” nhưng tôi nào
có sung sướng. Chữ nghĩa hay lừa dối lắm. Đừng có nhắm mắt nghe nó chỉ
bảo. Thật là sai lầm, nếu viết thư đến thành phố Giăng để mua găng tay
(Nguyên văn: Gand và gant, đồng âm) và đến Lyông để mua ly cốc (Nguyên văn: Liège (thành phố) và liêge điên điên, đồng âm).
Đalia ạ, tôi như cô tôi lấy tên là Hồng. Hoa phải thơm, cũng như phụ nữ
phải thông minh. Còn Phăngtin thì tôi chả dám nói gì cả. Phăngtin là
một cây nghĩ ngợi, một cây mơ mộng, một cây suy tưởng, một cây cảm xúc:
Phăngtin là một bóng ma có lốt người tiên nữ, có đức e lệ của ni cô,
nàng đi lạc vào cõi lả lơi và ẩn mình nơi ảo tưởng, nàng ca hát, nàng
cầu nguyện, nàng ngước nhìn mây xanh mà cũng chẳng biết mình trông thấy
gì, mình đang làm gì và cứ thế, mắt để trên trời cao, nàng thẩn thơ qua
một khu vườn ở đó chim chóc còn nhiều hơn t
rong
thực tế! Phăngtin ơi! Em nên biết điều này: anh Tôlômiet của em là một
ảo tưởng đây. Thế nhưng nàng có nghe thấy đâu, cô em tóc vàng chỉ sống
với ảo mộng! Dù sao, ở nàng cái gì cũng tươi mát, thơm tho, cũng son sẻ,
dịu dàng như ánh ban mai, Phăngtin ơi! Em đáng được gọi là thủy tiên
hay bích ngọc, em là con người của xứ sở thần tiên.

Thưa
các vị phu nhân, tôi lại có một lời khuyên thứ hai: chớ có lấy chồng.
Lấy chồng cũng tỉ như ghép cây, may thì tốt, rủi thì xấu, chi bằng tránh
cái rủi may là hơn. Nhưng mà, ngốc! Tôi nói cái gì thế nhỉ! Tôi líu
lưỡi mất rồi. Đàn bà, con gái, làm sao mà chữa cho họ lành được cái bệnh
“mống chuồn”!
(Nói lái) Những
người hiểu biết như chúng ta có cái gì thì nói chứ làm sao ngăn các cô
khâu đầm khỏi mơ ước một ông chồng giàu sụ? Thôi, cũng được. Nhưng mà
các vị này, các vị nhớ cho: các vị ăn nhiều của ngọt quá. Phụ nữ các cô
có mỗi một tội, các cô nhấm nháp lắm thứ ngọt. Ôi! Cái giới gặm nhấm
kia, những chiếc răng trắng nhỏ xinh của các người ưa thích đường lắm.
Các cô nghe cho rõ, đường là một chất muối. Muối thì háo. Đường lại là
loại háo nhất trong các chất muối. Nó hút chất nước trong mạch máu; do
đó sinh ra máu đông, máu ứ; sinh ra sưng, ra tấy trong phổi và thế là
chết. Có thế bệnh đái đường mới dẫn đến bệnh lao. Cho nên các cô chớ có
xơi của ngọt nếu các cô muốn sống lâu!

Bây
giờ tôi xin nói chuyện với các vị đàn ông. Thưa các vị, các vị cứ chinh
đông tảo bắc cho tôi. Các vị cứ cướp bóc người yêu của nhau đi, không
cần ăn năn hối hận gì cả. Cứ đánh chéo góc đi, trên tình trường chẳng có
bạn với bè gì hết. Có gái đẹp là có tranh chấp. Đánh đến cùng, không
chừa, không tha chi cả! Gái đẹp là một cớ gây ra chiến tranh:
(Nguyên văn Latinh: Casus bell)
bao nhiêu cuộc xung đột, quả tang là một người đàn bà đẹp! Xưa nay
trong lịch sử các cuộc xâm lược đều do cái váy của phụ nữ mà sinh ra cả.
Đàn bà là quyền lợi của đàn ông. Rômuylút, Guyôm, Xêda đến đâu đều
chiếm lấy gái ở đó. Kẻ không được yêu thì như con kên kên bay lượn trên
nhân tình của kẻ khác. Tớ thì tớ hướng về những anh chàng “phòng không”
xấu số ấy mà tuyên bố như
Bônapac
tuyên bố một cách siêu hùng trước quân đoàn Itali của mình: “Hỡi binh
sĩ, các người thiếu thốn tất cả. Những gì các người thiếu thốn, quân
địch đều có”.

Tôlômiet dừng lại như hết hơi. Blasơven bảo:
- Tôlômiet, cậu nghỉ tí đã.
Cùng
lúc đó, Blasơven có Lichtôliê và Phamơi giúp sức, cất giọng xót thương
hát một bài hát thợ thuyền. Bài hát như ghép lung tung chữ nọ với chữ
kia, có câu có vần rất chỉnh mà có câu không, nội dung vô
ý
nghĩa như gió thổi cây lay. Những bài hát như thế này, thợ thuyền vừa
hút thuốc vừa đặt ra, cho nên nó cũng mau chóng bay đi và tan biến như
khói thuốc lá. Đây là một đoạn đáp lại bài hát kêu gọi Tôlômiet:


Kìa các bác gà tây



Tung tiền cho tụi chân tay



Lo cho cái ông Sấm sét



Được phong Giáo hoàng ngày Tết



Nhưng nào có được chi đâu



Sấm sét nào phải thầy tu



Chân tay ta đành tất tưởi



Mang tiền trả các bác gà tây

Nhưng
bài hát chẳng hề khiến cho dòng cảm hứng của Tôlômiet bớt sôi nổi.
Chàng dốc cạn cốc rượu, rót đầy một cốc khác và nói tiếp:

- Đả đảo triết !
Các vị hãy quên đi các lời tôi vừa nói. Chúng ta đừng nên cố chấp, đừng
nên thận trọng, cũng đừng nên quá lành. Ta cứ vui chơi thoải mái đây!
Chúng mình phải biết ăn uống, biết ngông cuồng để bổ sung cho các bài
luật học. Bội thực và Đigext
(Nguyên văn: Digesle, bộ sách luật tập hợp theo lệnh hoàng đế Giuytxtiniêng). Giuytxtiniêng
và chè chén phải như đôi vợ chồng. Ấy cái vui nó ở sâu như vậy đó! Hỡi
tạo vật! Hãy sống đi! Vũ trụ là một khối kim cương. Tôi thấy mình sung
sướng. Chim chóc hân hoan lạ. Đâu đâu cũng như ngày hội! Chim họa mi réo
rắt giọng danh ca. Nắng hè ơi! Ta chào người. Hỡi vườn Luychxămbua xinh
đẹp, hỡi những bàn tình ca bên gốc cây bờ cỏ! Hỡi những anh lính mơ
mộng! Hỡi những cô giữ trẻ xinh tươi, các cô vừa giữ trẻ thơ vừa chơi
trò thai nghén trẻ thơ! Giá không có các vòm cửa uốn cong của rạp Ôđêông
thì tôi thích những cánh đồng cỏ mênh mông ở Nam Mỹ biết bao nhiêu! Tâm
hồn tôi đang bay bổng trên những thảo nguyên, những rừng nguyên thủy
tận bên trời. Chao ôi! Cái gì cũng diễm lệ! Con ruồi vo ve trong ánh
nắng. Mặt trời hắt hơi ra con chim đỏ lửa. Phăngtin ơi, hôn anh đi!

Chàng ôm nhầm phải Phavurit.
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:28 pm

VIII



NGỰA CHẾT HẾT CHUYỆN



Dêphin bỗng dưng kêu lên:
- Ở hiệu Êđông cơm ngon hơn ở Bôngbacđa.
- Tớ thích đến Bôngbacđa hơn - Blasơven đáp.
- Ở đó sang hơn. Phương đông hơn. Hãy nhìn phòng dưới nhà. Có gương trên tường đấy.
- Tớ thích có gương trong đĩa hơn (Nguyên văn: glaces vừa có nghĩa là gương vừa có nghĩa là kem) Phavurit nói.
Blasơven nhấn mạnh:
- Xem dao này. Ở Bôngbacđa cán bạc, ở Êđông cán xương. Bạc thì quí hơn xương.
- Trừ những ai có cái cằm bằng bạc - Tôlômiet chữa lại.
Lúc này chàng đang nhìn vòm mái cung Anhvalit, qua cửa sổ quán Bôngbacđa.
Một phút im lặng trong phòng:
- Này, Tôlômiet – Phamơi nói to – ban nãy tớ và Lichtôliê vừa mới tranh luận đấy.
- Tranh luận, khá đấy – Tôlômiet đáp – cãi cọ hay hơn.
- Chúng tớ tranh cãi về triết học.
- Được.
- Đêcac và Xpinôđa, cậu thích ai hơn?
- Tớ thích Đêđôgiê - Tôlômiet đáp.
Tuyên bố xong điều đó, chàng nhấp một hớp rượu rồi tiếp:
- Tớ đồng ý
phải sống. Trên đời này mọi sự chưa phải đã hết bởi vì người ta còn có
thể nói quấy nói quá được. Xin cám ơn các vị thần linh bất tử. Người ta
nói dối đấy người ta lại cười. Người ta khẳng định nhưng người ta lại
nghi hoặc. Từ kiểu tam đoạn luận bật ra những cái bất ngờ. Hay lắm. Dưới
gầm trời này hãy còn có người khéo biết dùng cái bất ngờ của ngụy biện!
Thưa các vị phu nhân, rượu mà các vị đang yên tĩnh nhấm nháp đây, là
rượu Mađe, các vị nên biết, cái xứ sản xuất ra nó, Curanđa Frera ở cheo
leo cách mặt biển những ba trăm mười bảy sải! Uống phải coi chừng! Ba
trăm mười bảy sải chứ ít đâu! Và ông
Bôngbacđa, nhà hàng ăn cừ khôi, lại đem cho ta ba trăm mười bảy sải ấy đổi lấy có bốn phơrăng rưỡi!

Phamơi một lần nữa ngắt ngay:
- Tôlômiet ơi, lời nói của cậu như là khuôn vàng thước ngọc cả. Vậy cậu thích nhà văn nào nhất?
- Béc...
- Canh?
- Không, Su (Berquin: nhà văn Pháp thế kỷ XVIII. Berchoux nhà thơ Pháp 1765-1839).
Và Tôlômiet tiếp tục:
- Hoan hô
Bôngbacđa! Ví thử ông ta làm sao mà dắt về cho tớ một vũ nữ Ai Cập hay
Hy Lạp thì có thua gì các nhà hàng ăn nổi tiếng ở các xứ đó? Tớ nói thế,
các vị phu nhân nhà ta có biết không? Ở các xứ ấy cũng có những ông
Bôngbacđa như ở ta. Đó là theo lời Apulê. À, té ra bao giờ cũng bấy
nhiêu chuyện chẳng có gì mới cả. Trong vòng tạo vật mọi cái đều cũ hết!
Xalômông nói: Chẳng có gì mới dưới ánh mặt trời. Viêcgin nói: Tình yêu
là cái chung cho mọi người
(Nguyên văn Latinh). Cho nên công nhân gái thì theo sinh viên trai leo lên thuyền buồm ởXanh
Cơlu, cũng như nàng Atxpađi cùng theo Pêricơlét trên hạm đội Xamôt. Xin
có một câu cuối cùng. Các vị có biết Atxpađi thế nào không? Atxpađi
sống vào thời buổi mà đàn bà coi như không có tâm hồn, thế mà nàng là
một tâm hồn rực rỡ, vừa hồng tươi vừa đỏ thẫm, còn nồng cháy hơn lửa,
tươi mát hơn bình minh. Atxpađi là nơi gặp gỡ giữa hai cực của người đàn
bà: nàng vừa là gái đĩ vừa là nữ thần. Xôcơrat cộng với Manông Lêcô.
Nếu Pơrômêtê cần một gái ăn sương thì Atxpađi là người sinh ra để đóng
vai ấy.

Tôlômiet
đang đà thao thao, khó mà dừng lại được, nếu ngay lúc ấy một con ngựa
không lăn đùng ra vệ đường. Nghe đánh sầm một cái là cỗ xe cũng như diễn
giả liền đứng sững lại. Thì ra là một con ngựa cái già và gầy đến bật
xương, đang kéo một chiếc xe ba gác nặng. Đến trước quán

Bôngbacđa, con vật kiệt sức, không chịu bước đi nữa. Thấy lạ, một đám
đông dồn lại. Người đánh xe nổi cáu, văng tục. Anh ta vừa giơ roi quật
như trời giáng xuống lưng con vật, vừa nghiến răng bật ra tiếng chửi
long trọng: “Con chó” thì con vật ngã quị luôn xuống đường, tắt thở.
Nghe tiếng người ồn ào ngoài đường, các thính giả vui tươi của Tôlômiet
bỗng ngoảnh nhìn ra ngoài. Tôlômiet nhân dịp chấm dứt bài diễn văn c
ủa mình bằng mấy vần buồn buồn sau đây:



Trăm năm trong cõi người ta

Số xe phận ngựa cũng là như nhau




Trải qua một cuộc khổ đau






Cái thân ngựa khổ sống lâu được nào!



(Nguyên văn tác giả nhại mấy câu thơ nổi tiếng của Malherbe)

Phăngtin thở dài:
- Tội nghiệp con ngựa!
Đalia kêu ngay:
- Coi kìa, cái con Phăngtin này nó lại đòi thương xót cả loài ngựa! Có ai mà ngốc như thế hở trời!
Cùng lúc ấy, Phavurit vòng tay sau gáy, ngả đầu, nhìn thẳng vào Tôlômiet và nói:
- Thế nào? Còn cái món bất ngờ kia đâu?
-
Chính là lúc đây. Thưa các ngài, đã đến giờ làm cho các quí nương đây
ngạc nhiên. Thưa các vị phu nhân, các vị hãy vui lòng chờ chúng tôi một
lát.

Blasơven nói:
- Trò này bắt đầu bằng một cái hôn.
Tôlômiet thêm:
- Trên trán.

mỗi chàng trai trịnh trọng hôn lên trán tình nhân mình. Xong họ nối đuôi
nhau đi ra cửa, một ngón tay đặt lên môi. Thấy thế Phavurit vỗ tay:

- Chưa gì đã vui rồi đấy.
Phăngtin thỏ thẻ:
- Đừng có đi lâu nhé. Chúng em chờ các anh đấy.

IX



CUỘC VUI TÀN TRONG CẢNH VUI VẺ


Bọn
con gái còn lại một mình bèn đem nhau ra cửa sổ. Cứ hai người một, họ
tì tay lên bậc cửa, cúi nhòm ra ngoài và tán gẫu, nói chuyện truyền từ
cửa này sang cửa kia. Họ trông thấy bọn con trai từ quán
Bôngbacđa
khoác tay nhau đi ra. Chúng quay lại, vẫy tay cười, rồi đi lẫn vào đám
đông đầy bụi bặm của những ngày chủ nhật ở quảng trường Săng Êlidê.

Phăngtin gọi với theo:
- Đừng đi lâu đấy nhé!
Dêphin hỏi bạn:
- Không biết rồi họ mang cái gì về cho chúng ta nhỉ?
- Chắc là đẹp lắm – Đalia bảo.
Phavurit thêm:
- Tớ thì tớ muốn là một thứ đồ vàng.
Rồi
họ xao lãng, vì cảnh tấp nập ở phía bờ sông, trông qua màn lá những cây
lớn bên đường quá vui mắt. Lúc ấy đương là giờ khởi hành của các chuyến
xe thư và hành khách. Hầu hết các xe đi về nam và về tây đều qua Săng
Êlidê. Phần lớn chạy dọc bờ sông rồi theo cửa ô Patxy ra khỏi thành phố.
Cứ mỗi phút, một cỗ xe lớn sơn vàng và đen chở lặc lè, ầm ầm chạy qua,
hình thù méo mó xộc xệch vì mang đầy những hòm, những bọc, những va li,
những đầu người thoáng hiện, thoáng khuất. Đá lát đường nát vụn dưới
bánh sắt. Cỗ xe dáng giận dữ xông qua giữa đám người, như cả một cái lò
bễ tóe lửa và bốc bụi lên như khói. Cảnh huyên náo làm cho các cô thích
chí. Phavurit reo:

- Nghe loảng xoảng tợn nhỉ! Như từng đống xích sắt tung bay.
Có một lúc, các cô trông thấy lờ mờ qua màn lá, một chiếc xe dừng lại một thoáng rồi lại phóng lên. Phăngtin lấy làm lạ:
- Lạ chửa! Em cứ tưởng xe chuyến thì chẳng bao giờ đỗ lại.
Phavurit so vai:
-
Cái con bé Phăngtin này thật là kỳ! Tao đến phải đi coi mày như một của
lạ. Chẳng có cái gì là không làm cho mày ngạc nhiên. Đây nhé: tao là một
hành khách; tao dặn người đánh xe: tôi đi lên trước, tôi đón anh ở
đường bờ sông. Xe đi, xe trông thấy tao, xe đỗ lại cho tao lên. Ngày nào
mà không có chuyện như thế! Em chẳng hiểu gì việc đời cả, em ạ.

Một lát. Bỗng Phavurit như tỉnh giấc:
- Ô này, món quà bất ngờ đâu nhỉ?
Đalia cũng nói:
- Ơ nhỉ! Cái món bất ngờ ghê gớm ấy đâu?
Phăngtin:
- Các anh ấy đi lâu thế:
Phăngtin vừa buông xong tiếng thở dài thì người hầu bàn khi nãy vào, tay cầm cái gì như là một phong thư:
Phavurit mau miệng hỏi:
- Cái gì thế?
- Các ông ấy trước khi đi có để cái giấy này lại cho các bà.
- Sao anh không đưa vào ngay?
- Vì các ông ấy dặn là phải chờ một tiếng đồng hồ rồi hãy đưa.
Phavurit giật tờ giấy trên tay người hầu bàn. Quả là một phong thư:
- Ô này! Thư không đề địa chỉ. Nhưng lại có mấy chữ:

Đây là món quà bất ngờ

Cô vội vàng bóc thư mở ra đọc (cô biết đọc):
“Hỡi các em yêu dấu!
Các
em nên biết rằng các anh có cha mẹ. Nói đến cha mẹ, các em chẳng hiểu
là cái gì. Dân luật giải thích ngây thơ nhưng đúng: cha mẹ là cha sinh
mẹ đẻ. Ấy, cha mẹ của bọn anh đương than vãn, các ông bà già ấy đương
gọi các anh về, những con người chất phác ấy mắng các anh là đồ phá gia
chi tử. Các cụ mong các anh về, các cụ hứa mổ bò ăn khao. Các anh vốn là
những đứa có hiếu nên phải tuân lời. Lúc các em đọc tờ giấy này cũng là
lúc bốn con ngựa hăng máu đang chở bọn anh về với các cụ. Bọn anh dùng
chước “thừa cơ lẻn bước ra đi” như nhà thơ đã nói. Các anh đi đây, các
anh đi thẳng. Các anh tẩu bằng xe, các anh bay bằng cánh. Chuyến xe Tulu
đang kéo các anh ra khỏi vực thẳm, vực thẳm ấy chính là các em, hỡi các
cô bé xinh đẹp! Các anh trở về với cha mẹ, với bổn phận, với nề nếp.
Các anh phóng nước đại, tốc độ ba dặm một giờ. Tổ quốc muốn rằng các anh
phải như thiên hạ, nghĩa là cũng làm quận trưởng, cũng lấy vợ đẻ con,
cũng làm lính tuần phòng hay bộ trưởng. Các em nên tôn thờ các anh. Các
anh đã tự hy sinh đây. Các em hãy khóc các anh sơ qua một tí thôi, rồi
liệu chong chóng tìm người thay chân các anh. Nếu lá thư này vò xé lòng
các em thì các em vò xé trả. Thôi, vĩnh biệt nhé.

Trong ngót hai năm, các anh đã làm cho các em sung sướng. Vậy đừng nên oán thán các anh.
tên: Blasơven
Phamơi
Lichtôliê
Tôlômiet
Tái bút: “Bữa cơm đã thanh toán”
Bốn cô nhìn nhau.
Phavurit lên tiếng trước:
- Thế nào! Gọi là một trò hí kịch cũng phải đấy chứ!
Dêphin:
- Buồn cười thật đấy!
Phavurit lại nói:
-
Đây chắc là sáng kiến của anh chàng Blasơven. Nó làm cho mình càng say
mê hắn. Cứ hễ người ta đi thì mình lại đâm yêu người ta, chuyện đời là
thế!

Đalia cãi:
- Không đâu. Chính là ý kiến của Tôlômiet. Khó gì mà không nhận thấy.
- Nếu vậy thì – Phavurit lại nói – đả đảo Blasơven, hoan hô Tôlômiet!
Cả lũ phá ra cười.
Phăngtin cũng cười như các bạn.
Một
giờ sau, khi về đến buồng riêng, Phăngtin khóc. Đây là mối tình đầu của
nàng, ta đã biết. Phăngtin đã hiến thân hoàn toàn cho Tôlômiet như đối
với một người chồng và tội nghiệp, nàng đã có con.



Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:29 pm

QUYỂN IV

GỬI TRỨNG CHO ÁC

I

MỘT NGƯỜI MẸ GẶP MỘT NGƯỜI MẸ





Môngphecmây, gần Paris, khoảng đầu thế kỷ này, có một hàng cơm nhỏ ở ngõ
Hàng Bánh, thứ hàng cơm nhỏ ấy ngày nay không còn nữa. Vợ chồng chủ
quán tên là Tênácđiê. Trước cửa hàng có một tấm bảng đóng ngay vào
tường, phía trên khung cửa. Trên bảng có vẽ hình cái gì như là hai người
cõng nhau, người trên đeo lon vàng cấp tướng với nhiều sao bạc to.
Nhiều vệt đỏ hình dung vệt máu. Chung quanh là khói,
ý hẳn để diễn tả một cảnh chiến trường. Dưới bảng đề chữ: Quán đội trưởng Oateclô.


Một
cái xe bò hay xe ba gác nằm trước một quán cơm thì có gì là lạ! Song cỗ
xe, hay nói cho đúng, mảnh xe cổ quái này, đỗ trước hàng cơm
Đội trưởng Oateclômột chiều xuân năm 1818 và chắn cả lối phố, thật đáng cho một nhà họa sĩ chú ý vì cái khối của nó.


Đó
là nửa trước của một cỗ xe đại ở miền rừng dùng để chở gỗ. Cái nửa trước
cỗ xe này gồm có một trục sắt đặc tra vào một đòn dọc nặng, tất cả đặt
trên hai bánh xe to tướng. Toàn bộ trông thấp lùn, nặng nề, xấu xí.
Người ta ngỡ đó là giàn đế của một khẩu đại bác khổng lồ. Đường lắm ổ gà
đã khiến cho bánh, vành, moa-ơ, trục, đòn đều bết một lớp bùn vàng bẩn
khó coi, tương tự như lớp vôi vàng người ta tra quét lên tiền diện của
nhà thờ lớn,

bị bùn che lấp, sắt bị gỉ phủ kín. Dưới trục xe lòng thòng một chiếc
xích to bự, xứng đáng để xích Gôltal nếu hắn là tù khổ sai. Trông cái
xích ấy, người ta không nghĩ đến những súc gỗ nó chở đi, mà nghĩ đến
những con voi
thái cổ
có thể buộc vào ách. Nó có dáng của nhà tù, nhà tù nhốt bọn khổng lồ dị
thường. Hình như nó được cởi ra từ mình một quái vật. Hôme có thể dùng
nó trói Pôliphem còn Sêchxpia thì trói Calibăng.


Sao
nửa chiếc xe chở gỗ ấy lại nằm ở đây? Trước hết là để cho vướng lối;
sau nữa là để cho nó gỉ nát hẳn đi. Ở trong trật tự xã hội cũ kỹ của
chúng ta, cũng có hàng mớ những thứ tổ chức nằm vướng vất ở lối đi, ngay
giữa trời như vậy cũng chẳng có lý do tồn tại gì khác thế.


Dưới trục xe có một cái xích sắt thòng xuống gần sát đất. Hai em bé gái ngi
trên khoảng vòng cung ấy như ngồi trên một chiếc võng đu. Em lớn, chừng
hai tuổi rưỡi, em bé được độ mười tám tháng. Em bé ngồi trông rất đáng
yêu. Một chiếc khăn tay khéo buộc giữ cho chúng khỏi ngã. Có lẽ khi
trông thấy chiếc dây xích dễ sợ ấy, một bà mẹ đã tự nhủ: “à, có chỗ để
cho con ta chơi đây!”


Áo
quần của hai đứa bé rất xinh và cũng cầu kỳ đôi chút. Trông các em hớn
hở như hai đóa hoa hồng giữa đống sắt gỉ. Mắt các em sáng rỡ, má các em
tươi tắn như cười. Một em tóc hạt dẻ, một em tóc nâu. Gương mặt ngây thơ
của các em sáng lên vì ngạc nhiên và sung sướng. Một bụi cây nở hoa gần
đó tỏa hương thơm, làm cho khách qua đường ngỡ là bay lên từ hai đứa
bé. Em bé mười tám tháng ngây thơ phơi cái bụng trần xinh xắn: rõ thật
là vô ý nhưng cũng thật là ngây thơ trong trắng. Hai cái đầu nhỏ nhắn
như nặn bằng hạnh phúc, như tôi trong ánh sáng, nổi lên giữa khung xe to
tướng đen sì gỉ sắt, ghê gớm, chằng chịt những đường cong đường gẫy,
khom khom như một cửa hang. Cạnh đấy, bà mẹ ngồi xổm ở ngưỡng cửa đu đưa
võng con bằng một sợi dây dài. Người mụ không có vẻ gì đáng ưa, nhưng
thấy đôi mắt mụ như ôm ấp con, lo lắng sợ con ngã với bản năng của người
mẹ, người ta cũng cảm động. Các võng xích mỗi lần đu đưa lại kêu kin
kít như giận dữ. Hai em thích chí. Ánh nắng chiều cũng xen vào cuộc vui.
Không gì kỳ thú bằng cái cảnh ngẫu nhiên một cái xích sắt của bọn khổng
lồ lại biến thành chiếc võng đào của một đôi ngọc nữ.


Người đàn bà vừa đưa võng ru con vừa hát một bản tình ca quen thuộc, giọng sai lạc:

“Âu phải thế” chàng trai thỏ thẻ.

Mải
hát, mải ngắm con, mụ không chú ý gì đến hàng phố. Có người đi đến gần
mụ. Khi mụ vào đoạn đầu khúc hát thì có tiếng ai nói một bên tai:


- Hai cháu bé của bà trông xinh quá!

Với cô Gin diễm lệ, đa tình

Mụ hát tiếp câu ấy, trả lời cho khách lạ, rồi mới quay lại nhìn.

Một
người đàn bà đứng trước mặt mụ, cách vài bước. Chị ấy cũng bế một đứa
con nhỏ. Chị còn mang một cái đãy lớn có dáng nặng lắm.


Con của chị đẹp như tiên đồng. Đó là một bé gái độ hai ba tuổi.
Cách ăn mặc đỏm dáng của nó có thể địch với hai đứa trẻ kia. Mũ nó viền
đăng ten, áo ngoài có nhiều ruy băng, dải mũ bằng hàng thượng hạng.
Chiếc váy ngắn hếch lên để lộ cặp đùi trắng, bụ bẫm và chắc nịch. Trông
nó thật là hồng hào, mạnh khỏe. Ai cũng muốn cắn vào hai bên má phinh
phính như hai quả táo. Còn hai con mắt thì chưa thể nói rõ được, chắc là
to lắm và có hàng mi dài rất đẹp. Em đang ngủ.


Em ngủ giấc ngủ tuyệt đối tin cậy của tuổi thơ. Tay mẹ là tay âu yếm, con nằm trong tay mẹ cứ việc ngủ say sưa.

Người
mẹ trông nghèo nàn, buồn bã. Chị ăn mặc như một người thợ sắp quay trở
về làm nông dân. Chị còn trẻ lắm. Đẹp hay xấu? Có lẽ đẹp. Nhưng ăn mặc
thế thì ai biết được. Tóc của chị chắc chắn là tốt lắm; có một mớ óng
vàng đổ xuống, còn bao nhiêu nằm chạt trong chiếc mũ vải thô, xấu xí,
chật hẹp, có dải buộc xuống dưới cằm. Có răng đẹp thì người ta hãy cười
để phô trương, nhưng chị không cười. Đôi mắt hình như vừa ráo lệ chưa
được bao lâu. Người chị xanh xao. Chị có dáng mệt nhọc lắm và chừng như
hơi đau yếu. Chị cúi nhìn đứa con đang ngủ trên tay với cái nhìn riêng
biệt của người mẹ nuôi lấy con. Một chiếc khăn tay xanh rộng, giống như
khăn thương binh, gấp chéo thành khăn quàng che lấp đường nét thân hình
chị. Bàn tay rám nắng của chị lấm tấm những vệt đỏ. Ngón trỏ đầy vết kim
châm sần sùi. Chị mặc một chiếc áo choàng nâu bằng len xấu, một chiếc
áo dài vải thô và đi đôi giầy lớn. Đó là Phăngtin.


Chính
Phăngtin. Thật khó nhìn ra. Nhưng nom cho kỹ nàng vẫn đẹp. Má bên phải
của nàng có một nếp nhăn buồn, có thể là một nét chán chường sớm hiện.
Bộ cánh ngày nào, bộ cánh nhẹ nhàng làm bằng là lụa, nơ, băng, may bằng
vui tươi, điên dại, bằng cung đàn, tiếng hát, bằng nhạc vàng và hoa xuân
thơm ngát, bộ cánh ấy đã bay biến. Những giọt sương hoa lộng lẫy như
kim cương dưới ánh mặt trời cũng tan biến như thế, để trơ lại cành cây
đen sì.


Từ ngày cái trò hí kịch diễn ra đến nay đã mười tháng qua. Trong thời gian mười tháng ấy đã xảy ra những chuyện gì? Đoán cũng biết được.

Bị
ruồng bỏ, Phăngtin lâm vào cảnh túng bấn. Bạn bè cũng mất hút. Tình
duyên với bọn đàn ông đã dứt thì tình bạn giữa mấy cô cũng chẳng còn gì.
Chỉ mười lăm ngày sau giả sử có ai nhắc lại trước đây, họ là những chị
em cố kết thì hẳn họ phải lấy làm lạ lùng. Bởi vì còn lý do gì làm chị
em với nhau nữa. Phăngtin còn trơ lại một thân một mình. Cha cửa đứa bé
đã bỏ đi, - than ôi! Những đỗ vỡ như thế có bao giờ được hàn gắn! – thì
cô ả thật quả bơ vơ; đã thế tính cần cù làm ăn đã mất, mà thú ăn chơi đã
trót bén mùi. Từ ngày dan díu với Tôlômiet, nàng coi thường cái nghề
hèn mọn của mình. Nàng đã bỏ bê khách hàng, khách hàng cũng hết cần
nàng. Tyệt lộ. Phăngtin võ vẽ đọc được chứ không biết viết: thuở nhỏ
nàng chỉ học k
ý
tên. Nàng cậy người viết một bức thư cho Tôlômiet, tiếp theo là bức thứ
hai, rồi bức thứ ba, Tôlômiet không trả lời. Một hôm, Phăngtin thấy mấy
mụ láng giềng nhìn con mình mà bàn tán: “Ai người ta nhìn những đứa trẻ
ấy là con? Người ta nhún vai với chúng nó!” Nghe thấy thế nàng hình
dung Tôlômiet nhún vai với đứa con vô tội của mình và coi nó như một trò
đùa. Lòng nàng thầm giận con người tệ bạc ấy. Nhưng bây giờ biết tính
sao đây? Tứ cố vô thân, chẳng còn biết nương tựa vào đâu. Mặc dầu trót
sa chân lỡ bước, song, như chúng ta đã biết, bản chất của Phăngtin đoan
trang và chính đính. Nàng cảm thấy khốn quẫn đến nơi và không biết rồi
còn tuột dốc đến đâu nữa. Cần phải dũng cảm! Nàng đã dũng cảm và đã
quyết tâm. Nàng có ý định quay về quê hương là Môngtơrơi, may ra gặp
được chỗ quen thuộc thu xếp công ăn việc làm cho. Phải, nhưng cần giấu
giếm đoạn đời sa ngã của mình. Nàng lờ mờ thấy trước một cuộc chia ly
mới, còn đau đớn hơn cuộc chia ly trước đây: lòng nàng se lại, nhưng
đành phải quyết tâm. Phăngtin – Chúng ta sẽ thấy – có cái can đảm cắn
răng phấn đấu vì cuộc sống.


Nàng
đã cương quyết từ bỏ các thứ trang sức, thay áo hàng mặc áo vải. Những
thứ áo lụa, dải là, đăng ten, nàng đem chữa tất cả cho con, hiện nay là
cái nguồn kiêu hãnh độc nhất và thiêng liêng của nàng. Có cái gì nàng
đem bán
hết,
được hai trăm phơrăng. Trang trải công nợ vặt vãnh, trong lưng chỉ còn
lại có tám mươi phơrăng. Một buổi sáng ấm áp mùa xuân, người thiếu phụ
hai mươi hai tuổi ấy từ giã kinh thành, cõng con ra đi. Ai trông thấy
cái cảnh bìu díu ấy cũng phải ái ngại cho hai mẹ con nàng. Trên đời,
người đàn bà ấy chỉ có đứa bé con ấy và đứa bé con ấy cũng chỉ có người
đàn bà ấy. Phăngtin cho con bú nên ngực nàng suy yếu, nàng húng hắng ho.


Còn
về Tôlômiet thì sau này chúng ta không có dịp nói đến nữa. Chỉ cần biết
rằng hai mươi năm sau, dưới thời Lui Philip, hắn là một thừa lại lớn ở
tỉnh nhỏ, có thế lực và khá giàu có. Là một cử tri ngoan, một hội thẩm
nghiêm khắc, hắn cũng đồng thời là một tay ăn chơi như xưa.


Cả
buổi sáng đi bộ, thỉnh thoảng để nghỉ chân, nàng lên cái thứ xe nhỏ ở
ngoại ô, trả bốn xu đi một dặm. Giữa trưa Phăngtin đến Môngphecmây và
nàng dừng lại ở ngõ Hàng Bánh.


Khi đi qua quán hàng Tênácđiê, nàng trông thy hai đứa bé gái chơi say sưa trên chiếc đu khổng lồ. Cảnh tượng vui vẻ ấy làm cho nàng lóa mắt, nàng phải dừng lại.

Có bùa mê. Hai chị em bé gái ấy là bùa mê đối với bà mẹ ấy.

Phăngtin
đứng nhìn, trong lòng rất cảm động. Chỗ nào có thiên thần tức là chỗ ấy
đã gần thiên đường. Nàng tưởng như nhìn thấy trên nóc quán ăn chữ: ĐÂY
huyền bí. Hai đứa bé trông có vẻ sung sướng làm sao! Nàng nhìn mãi, nàng
khen mãi. Lòng nàng quá xúc động nên khi người mẹ ngừng lại giữa hai
câu hát để lấy hơi thì nàng không thể nhịn không nói cái câu mà chúng ta
đã đọc:


- Hai cháu bé của bà trông xinh quá!

Những
giống vật hung dữ đến đâu đi nữa khi thấy người ta vuốt ve con mình
cũng hóa hiền. Người mẹ nhìn lên và cảm ơn, rồi mời khách ngồi lên tấm
ghế gỗ kê ở trước cửa, còn mình thì vẫn ngồi nguyên ở bậc cửa.
Hai người nói chuyện với nhau.


- Tôi là bà Tênácđiê. Vợ chồng chúng tôi là chủ cái quán trọ này.

Rồi mụ khe khẽ hát nốt đoạn bỏ dở:

Tướng dòng chi sá hy sinh

Đất thiêng phải xuất tinh binh bảo toàn.

Mụ
Tênácđiê là một mụ đàn bà tóc hung, to béo, vó người thô lỗ, nom ra
tướng một mụ vợ lính thất thế. Thế mà vì đọc nhiều tiểu thuyết, lúc nào
mụ cũng làm ra dàn ẻo lả mới thật là kỳ quặc. Trông mụ, người ta tưởng
là một người đàn ông làm duyên õng ẹo. Đó là kết quả của những cuốn tiểu
thuyết quen thuộc của đám gái hàng cơm. Mụ cũng còn trẻ, chỉ trạc ba
mươi. Giả sử mụ đứng thẳng dậy chứ không ngồi xổm thì có lẽ cái vóc
người cao lớn, cái thân hình hộ pháp đáng làm diễn viên cho rạp xiếc lưu
động ấy đã làm cho khách phải giật mình, ngần ngại mà không dám bày tỏ ý
định. Số mệnh người ta thay đổi vì một người ngồi hay đứng là như thế.


Khách kể lại chuyện mình, có dối trá chút đỉnh:

Làm
thợ, chồng chết, ở Paris không có việc làm, phải đi nơi khác kiếm ăn,
đi về quê nhà; đi từ Paris lúc sáng, đi bộ mà lại cõng con nên cũng mệt,
gặp chuyến xe đi Vimômnlơ, đã đáp một chặng đường; từ đấy lại đi bộ đến
Môngphecmây; đứa bé cũng đi chút ít, đi ít thôi, nó còn bé lắm, rồi lại
phải bế nó lên và “con chó con” ngủ thiếp suốt dọc đường.


Nói
đến đây, nàng say sưa hôn con một cái, làm cho nó thức dậy. Nó mở mắt,
đôi con mắt to và xanh như mắt của mẹ nó và nhìn. Nhìn gì? Chẳng nhìn gì
cả mà lại nhìn tất cả, với cái vẻ trang trọng và có khi nghiêm nghị của
con trẻ. Đó là sự huyền bí của tuổi thơ ngây tươi sáng bên cạnh đạo đức
xế chiều của chúng ta. Tựa hồ chúng cảm thấy chúng là thiên thần mà
biết chúng ta chỉ là bọn người tai phàm mắt tục. Thế rồi đứa bé bật cười
và mặc cho mẹ nó cố giữ lại, nó cứ tụt xuống đất hết sức bướng bỉnh như
mọi đứa trẻ thèm được chạy. Bỗng nó trông thấy hai đứa kia trên dây đu,
nó đững sững ngay lại, thè lưỡi ra khâm phục.


Mụ Tênácđiê cởi chiếc khăn cho hai đứa con xuống, rồi nói:

- Ba con cùng chơi với nhau đi.


cái tuổi ấy làm quen với nhau rất chóng. Chỉ phút sau, hai đứa trẻ nhà
Tênácđiê đã cùng với con bé mới đến chơi đào lỗ ở dưới đất, coi bộ thích
chí lắm.


Con
bé mới đến tính thật là vui – Cái vui của đứa trẻ là phản ánh lòng hiền
từ ở người mẹ. Nó nhặt một que củi làm xẻng, mắm môi đào một cái hố
chôn vừa một con ruồi. Cái công việc đào huyệt ở tay trẻ con cũng hóa ra
việc vui vẻ.


Hai người đàn bà vẫn nói chuyện:

- Con bé nhà bà tên gì?

- Côdét.

Côdét
tức là Ơphơradi. Con bé tên là Ơphơradi. Từ Ơphơradi, Phăngtin đã đổi
thành Côdét. Các bà mẹ, cũng như nhân dân, vẫn có tính dịu dàng âu yếm,
cho nên đặt đổi tên con theo tính ấy. Cách cải tên của họ làm cho các
nhà
tầm nguyên học ngơ ngác. Chúng tôi biết có một bà nội đã tìm được cách biến tên cháu là Têôđorơ thành Nhông.


- Con bà lên mấy?

- Cháu sắp lên ba.

- Thế thì cũng bằng con cháu lớn nhà tôi.

Trong
lúc ấy ba đứa bé đương chụm đầu vào nhau, lo ngại và thích thú. Vì có
một biến cố xảy ra: một con giun to tưởng vừa ở dưới đất chui lên. Thế
là ba đứa sợ và lại mê mẩn nhìn.


Ba cái trán sáng sủa kề gần nhau, trông giống ba cái đầu trong một vành hào quang.

Mụ Tênácđiê nói lớn:

- Trẻ con có khác, chóng thân với nhau thế! Ai chẳng bảo là ba chị em ruột.

Người mẹ kia ý chừng chỉ chờ đón cái tia lửa ấy. Nàng nắm ngay lấy tay mụ Tênácđiê, nhìn vào tận mắt mà hỏi:

- Bà có bằng lòng giữ hộ con bé cho tôi không?

Mụ Tênácđiê ngạc nhiên, làm một điệu bộ không ra nhận và cũng không ra không.

Mẹ Côdét nói:

-
Bà hiểu cho, tôi không thể đem cháu về quê được. Công việc làm ăn của
tôi buộc phải thế. Có con mọn kè kè thì còn ai người ta dám mượn nữa. Ở
cái xứ tôi họ gàn dở như thế đấy. Có lẽ lòng trời run rủi cho tôi đi qua
đây. Khi tôi thấy được hai cháu bé của bà xinh đẹp, sạch sẽ thế, sung
sướng thế, tôi rất xúc động. Tôi tự nhủ: bà này chắc khéo nuôi con. Phải
đấy. Chúng nó sẽ thành ba chị em. Với lại, chỉ ít lâu thôi tôi sẽ trở
lại. Bà trông giúp hộ con bé cháu nhé?


- Để còn xem thế nào đã.

- Mỗi tháng tôi trả cho bà sáu phơrăng đấy.

Đến đây thì trong nhà hàng có tiếng đàn ông nói chõ ra: - Kém bảy phơrăng không được. Và trả trước sáu tháng.

Mụ Tênácđiê tính:

- Sáu bảy, bốn mươi hai.

- Tôi xin trả đủ.

Tiếng đàn ông ở trong lại nói:

- Còn phải thêm mười lăm phơrăng nữa để chi trước những món lặt vt.

Mụ Tênácđiê lại tính:

- Cộng tất cả là năm mươi bảy phơrăng.

Và qua những con số đó, mụ thì thầm hát:

“Âu phải thế”! chàng trai thỏ thẻ...

-
Tôi sẽ đưa đủ, mẹ Côdét nói. Tôi có những tám mươi phơrăng. Tôi cũng còn
đủ để về đến quê nhà nếu chịu khó đi bộ. Tôi sẽ đi làm, khi dành dụm
được ít nhiều, thế nào tôi cũng đến đón cục vàng của tôi.


Tiếng đàn ông hỏi thêm:

- Con bé có xống áo gì không?

- Chồng tôi đấy – mụ Tênácđiê bảo.

-
Hẳn chứ. Hòn ngọc của tôi sao lại không có xống áo. Tôi cũng đoán biết
đấy là bác giai rồi. Bộ cánh của con bé cừ ra phết đấy nhé! Một bộ cánh
vô lý, cái gì cũng từng tá! Loại áo hàng, áo lụa như một bà quí phái
vậy. Tôi để cả trong đãy này.


Tiếng đàn ông lại nói:

- Thế thì phải để lại cho nó.

- Không để lại, thì giữ làm gì? Có là điên mới để cho con trần truồng như nhộng ấy!

Lúc này chủ quán mới ló mặt ra:

- Được rồi.

Hai
bên điều đình xong. Người mẹ tối hôm ấy ngủ trọn lại nhà hàng, trao
tiền và gửi con. Sáng hôm sau nàng ra đi, thắt lại cái đãy bẹp hẳn và
nhẹ bỗng vì đã bỏ hết quần áo của con ra. Nàng mong rằng chỉ ít lâu sau
sẽ trở lại. Người ta bình tĩnh xếp đặt những chuyến ra đi như thế, nhưng
bên trong người ta nát ruột nát gan.


Một bà hàng xóm nhà Tênácđiê gặp người mẹ ấy, về thuật lại:

- Tôi mới gặp một người đàn bà vừa đi vừa khóc ở ngoài phố, thật là thương tâm.

Mẹ Côdét vừa đi khỏi, chủ quán bảo vợ:

-
Vừa may, ngày mai phải trả món nợ một trăm mười phơrăng, mà tôi còn
thiếu năm mươi quan. Không có món này chưa biết mai đây xoay xở với lão
mõ tòa làm sao? Mẹ mày thật khéo đem hai đứa trẻ mài gài bẫy chuột.

- Mà có định bẫy đâu!

II

VÀI NÉT PHÁC HỌA ĐẦU TIÊN VỀ

HAI BỘ MẶT KHẢ NGHI


Con chuột mắc bẫy chỉ là con chuột nhắt, nhưng với mèo thì đến chuột còm nó cũng thích.
Vợ chồng Tênácđiê là hạng người gì?
Hãy giới thiệu chung ngay bằng vài nét, sau này sẽ bổ khuyết dần.
Những
ngữ ấy thuộc về cái tầng lớp vô thừa nhận gồm có những người thô lỗ
giàu xổi lên và những người khôn ngoan sa đọa. Tầng lớp này nằm giữa
tầng lớp gọi là trung gian và tầng lớp dưới. Nó hòa lẫn một vài thói hư
của lớp dưới với hầu hết những tật xấu của tầng lớp trung gian. Vì thế
chúng không có nhiệt tình hào hiệp của người th
mà cũng vẫn thiếu cái tính ngăn nắp lương thiện của anh tư sản thị dân.

Đó là một hạng người lùn không vươn lên được. Khi bị một dục vọng
nào hun đốt thì họ dễ thành yêu quái. Con vợ bản chất thô bạo phũ
phàng, còn thằng chồng thì là một thằng khốn kiếp. Cả hai đứa đều có
triển vọng tiến khôn cùng trong tội ác. Trên đời có những con người
giống như loài tôm tép chỉ muốn giật lùi và đi sâu mãi vào trong bóng
tối chứ không muốn tiến lên chút nào. Chúng càng có kinh nghiệm càng
thêm xấu xa, chúng tiến sâu vào con đường l
m lỗi, chúng đẫm mình vào chỗ bùn đen ngày một dày đặc. Hai vợ chồng nhà ấy chính ở vào loại này.

Nhất
là vẻ mặt lão Tênácđiê thì phải làm cho thầy tướng băn khoăn. Có những
người, ta mới trông là phải ngờ vực, đoán thấy đời họ có một cái gì mờ
ám. Chúng thậm thọt lo sợ về phía sau lưng chúng và gầm ghè, dọa nạt
đằng trước m
t.
Chúng có cái gì bí mật. Không ai có thể tin những hành động đã qua và
bảo đảm những hành động sắp tới của chúng. Cái nhìn của chúng có một cái
gì đen tối có thể tố cáo chúng. Nghe chúng nói một câu, thấy chúng làm
một điệu bộ, người ta cũng phảng phát thấy thân th
ế của chúng có nhiều điều bí ẩn cũng như tương lai còn nhiều chuyện tối tăm.

Tên
Tênácđiê này theo lời hắn khoe, đã có lúc ở lính, đóng lon đội. Hắn có
tham gia các trận đánh năm 1815 và hình như cũng tỏ ra gan dạ. Để sau
này rồi ta sẽ thấy gan dạ thế nào. Cái biển treo trước cửa qu
án cơm có ý khoe một chiến công của hắn. Hắn tự v lấy, vì nghề gì hắn cũng biết qua một tí, có điều là rất tồi.

Lúc
ấy thời kỳ những tiểu thuyết cổ điển tuy vẫn tả những nhân vật quí phái
nhưng đã biến thành thứ văn chương dung tục, nung nấu tâm hồn đa tình
của các chị gác cổng Paris và một phần nào của các chị ngoại ô. Mụ
Tênácđiê vừa đủ trí thông minh để đọc những sách đó. Những tiểu thuyết
ấy đã thành món ăn của mụ. Tim óc mụ chìm ngập trong ấy. Vì thế, lúc còn
xuân xanh, cả đến khi đứng tuổi, lúc nào mụ cũng có cái dáng điệu trầm
ngâm mơ mộng bên cạnh chồng. Thằng chồng thì xỏ lá mà khá thông minh,
hay chữ ở ngoài mép, thô lỗ nhưng lại tinh v
i trong tình ái, đối với phụ nữ thì có thái độ một tên quých
lễ độ và lịch sự. Con vợ kém thằng chồng chừng mười hai, mười lăm tuổi.
Đến khi cái mái tóc rũ như lệ liễu trong tiểu thuyết kia đã ngả màu hoa
râm, khi người thiếu phụ đú đởn đã trở thành một người đàn bà tai
nghiệt, một con nặc nô rồi, thì mụ chỉ là một con mụ béo xị, nanh ác với
mớ tiểu thuyết nhảm trong đầu. Đừng tưởng đọc những sách nhảm không
hại! Vì sách nhảm, con gái đầu của mụ mang tên Epônin. Mụ toan gọi con
em là Guynna cho trọn bộ tiểu thuyết, may sao mụ lại nghĩ ngay đến một
quyển khác nên đặt tên nó là Adenma.

Cái
thời ấy kể cũng lạ, như là có một sự đảo ngược trong cách đặt tên. Thật
ra, không hẳn tất cả đều buồn cười và nông nổi. Như trên đây đã vạch
ra, trong đó có màu sắc tiểu thuyết, nhưng bên cạnh còn thấy dấu hiệu xã
hội.Ngày nay, không hiếm những anh dân cày có tên là Actơ, Anphơrê,
Anphôngrơ, mà cũng có những bậc danh gia tử đệ -
nếu
còn có những bậc danh gia tử đệ - lại lấy tên là Tômat, Pie hay Giăccơ.
Bình dân mà đặt tên văn hoa, còn quí tộc lại lấy tên quê mùa, cục mịch,
sự xáo trộn ấy chẳng có gì khác là một dư ba của phong trào bình đẳng. Ở
đây cũng như mọi chỗ khác, ảnh hưởng của lu
ng gió mới không gì ngăn cản nổi. Bên dưới cái lộn xộn mặt ngoài ấy, là một sự kin sâu xa, vĩ đại: cuộc các mạng Pháp.
III

SƠN CA




Muốn làm giàu, độc ác cũng chưa đủ, cho nên hàng cơm của Tênácđiê ngày càng suy.

Nhờ
có cái khoản năm mươi bảy phơrăng của Phăngtin, Tênácđiê thanh toán chủ
nợ và tránh lôi thôi với mõ tòa. Tháng sau, hắn lại túng tiền. Mụ vợ
đem sống áo của Côdét đi Paris, cầm được sáu mươi phơrăng. Khi tiêu hết
món tiền rồi, vợ chồng Tênácđiê dần dần coi Côdét như một con bé nuôi
làm phúc và đối xử với nó như đứa ăn báo cô. Quần áo của nó đưa đi cầm
cả rồi, nó phải mặc những đồ thải của hai đứa con mụ chủ, váy cũ, áo
rách, toàn đồ tã. Ăn thì thí cho rặt cơm thừa canh cặn của cả nhà, có
hơn con chó một chút nhưng kém con mèo. Vả lại thường thì nó vẫn ăn
chung với chúng ở gậm bàn, cũng được dùng một cái bát gỗ như chúng.


Mẹ
nó về ở Môngtơrơi cứ mỗi tháng viết một phong thư, hay nói cho đúng là
thuê viết một phong thư để hỏi thăm con. Lần nào vợ chồng Tênácđiê cũng
trả lời một điệu: con bé hay ăn chóng nhớn lắm.


Khi
số tiền trả trước cho sáu tháng đã hết, từ tháng thứ bảy, Phăngtin đều
đều tháng nào cũng gửi bảy phơrăng. Nhưng chưa hết năm Tênácđiê đã nói:
“Nó làm như thí ăn cho mình không bằng! Có bảy phơrăng thì làm được trò
trống gì?” Rồi hắn viết thư đòi mười hai phơrăng. Mẹ thấy nói con ăn
chơi mạnh khỏe lại chóng lớn thì cũng bằng lòng và gửi số tiền mười hai
phơrăng.


Đời
có kẻ hễ có yêu thì đồng thời phải có ghét. Mụ Tênácđiê yêu tha thiết
hai đứa con mình, cho nên mụ rất ghét con người ta. Thật là buồn khi
thấy rằng tình yêu thương của người mẹ mà cũng có thể có những mặt xấu!
Khốn nạn, con Côdét ở nhà mụ thì hết bao nhiêu chỗ, thế mà mụ làm như nó
chiếm mất phần của con mụ, nó thở tranh không khí của con mụ. Mụ ấy,
cũng như nhiều đứa cùng giống, hằng ngày đã hôn hít vuốt ve thì hằng
ngày cũng phải chửi bới đánh đập. Nếu không có con Côdét thì có lẽ mấy
đứa con mụ dù được yêu dấu thế nào đi nữa, tất cũng có lúc bị chửi bới
đánh đập. Có Côdét ở đấy, Côdét đã gánh vác hộ chúng, chúng chỉ lĩnh
những hôn hít vuốt ve. Còn Côdét mỗi lần động chân động tay là một lần
bị phạt, bị mắng như tát nước vào mặt một cách thậm vô
.
Con bé hiền lành yếu ớt không hiểu gì về cuộc đời, về Chúa, chỉ thấy
mình quanh năm bị phạt, bị mắng, bị hành hạ, bị đánh đập, mà ở cùng nhà,
hai đứa nhỏ kia cũng như mình lại sướng như tiên!


Mụ Tênácđiê đã ác với Côdét, thì EpôninAdenma cũng ác theo. Ở cái tuổi ấy, con là dập khuôn của mẹ, chỉ khác là con nhỏ, mẹ to mà thôi.

Một năm qua, rồi một năm nữa. Trong làng người ta bảo nhau:

- Vợ chồng Tênácđiê thế mà phúc đức. Nhà đã không có lại còn nuôi thêm một con bé người ta bỏ đi.

Ai cũng tưởng Côdét là đứa con bị mẹ bỏ.

Lúc
đó, không biết gã Tênácđiê dò hỏi ở đâu mà biết được rằng Côdét chắc
chắn là con hoang nên mẹ nó phải giấu. Hắn bèn đòi phải đưa mười lăm
phơrăng một tháng, nói rằng con bé lớn rồi và ăn
tốn
lắm và dọa nếu không thì đuổi đi. Hắn gắt: “Đừng có trêu vào tay ông!
Ông thì ông ném con ranh con về giữa chỗ chúng mày lánh mặt cho mà xem.
Phải đưa thêm tiền cho ông”. Thế là Phăngtin phải trả đủ mười lăm
phơrăng.


Mỗi năm con bé một lớn lên thì những nỗi đau khổ của nó cũng lớn theo.

Khi
còn bé tí, Côdét là cái bung xung của hai đứa con nhà chủ; đến lúc lớn
lên được một chút, nghĩa là chưa đầy năm tuổi, thì nó thành ra đứa đầy
tớ cho cả nhà.


Năm tuổi, ai tin được! Than ôi, thế mà quả có như vậy. Khổ cảnh xã hội có từ gì con trẻ!

Chúng
ta chẳng thấy vụ án Đuymôla vừa rồi đó sao? Tội phạm là một trẻ mồ côi
nay đã biến thành kẻ cướp. Cái tài liệu chính thức cho biết từ hồi lên
năm em đã trơ vơ một mình, không thân không thích, phải “lao động và ăn
cắp để sống”.


Côdét
phải làm các việc vặt, phải quét tước các buồng và sân, cổng, rửa bát,
có lúc phải khiêng vác đồ nặng nữa. Gặp phải thời kỳ mẹ nó gửi tiền thất
thường, trễ đi vài tháng, vợ chồng Tênácđiê được thể lại càng hành hạ
nó.


Nếu Phăngtin trở lại Môngphecmây
ba năm sau khi ra đi thì đến nàng cũng không thể nhận ra con mình nữa.
Con bé khi vào nhà ấy xinh tươi là thế, mà đến nay thì gầy còm, xanh
xao. Dáng đi lại rụt rè, sợ sệt, vợ chồng chúng nó bảo là “gian hiểm”.


Chịu
đựng bất công lắm nên con bé hóa ra cảu nhảu, đói khổ quá nó hóa ra xấu
xí. Cả người con bé chỉ còn có đôi mắt là đẹp. Ai trông thấy đôi mắt ấy
cũng phải thương, vì càng to càng thấy mênh mông nỗi khổ.


Mùa
rét, chưa sáng con bé không đầy sáu tuổi ấy đã ra đường quét tước. Nó
run lẩy bẩy trong mấy miếng giẻ che thân. Hai bàn tay nhỏ xíu và đỏ nhừ
ôm một cái chổi to tướng, trong mỗi khóe mắt, một giọt lệ ngập ngừng.
Thật đã não lòng!


Quanh
đây người ta gọi nó là con Sơn Ca. Người bình dân hay ví von, đặt cho
nó cái tên như thế vì con bé không lớn hơn con chim, run lẩy bẩy, lúc
nào cũng sợ sệt, giật mình, trong nhà và cả trong làng sáng tinh sương
chưa có ai dậy, đã thấy nó ở ngoài đường hay ra đồng rồi.


Nhưng tội nghiệp Sơn ca này không bao giờ hót cả.
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:33 pm

QUYỂN V





XUỐNG DỐC





I





QUÁ TRÌNH CẢI TIẾN





NGHỀ LÀM THỦY TINH ĐEN




Cái người đàn bà bỏ con đó, theo lời bàn tán của người phố Môngphecmây, hiện bây giờ ra sao? Ở đâu? Làm gì?

Phăngtin đem Côdét gửi vợ chồng Tênácđiê rồi lại lên đường đến Môngtơrơi.

Người ta vẫn còn nhớ là lúc ấy vào năm 1818.

Phăngtin rời bỏ tỉnh nhà ra đi đã được mười năm: Môngtơrơi
đã thay đổi nhiều. Nàng thì hết vận hạn này đến vận hạn khác ngày một
lụn bại, nhưng tỉnh quê của nàng thì cứ thịnh vượng dần mãi lên.


Nguyên do là hai năm trước, ở đây đã có một biến chuyển công nghiệp, một sự kiện quan trọng ở tỉnh nhỏ.

Chi tiết này quan trọng, chúng tôi thấy cần phải nói rõ, có khi phải nhấn mạnh nữa.

Từ lâu đời, đất Môngtơrơi vẫn có nghề riêng là làm huyền
Ănglê giả và đồ thủy tinh đen như của Đức. Công nghệ đó sống vất vưởng
vì nguyên liệu đắt đỏ ảnh hưởng đến nhân công. Vào khoảng Phăngtin trở
về quê nhà, nghề làm
đồ huyền và thủy tinh đen tự nhiên biến đổi một cách kỳ diệu. Số là khoảng cuối năm 1815 có người không biết từ đâu đến Môngtơrơi
tìm cách làm ăn. Người ấy nghĩ ra được một phương pháp mới, lấy cánh
kiến thay cho nhựa làm nguyên liệu và trong cách làm vòng đeo tay đã
dùng cốt bằng tôn kháp lại chứ không phải hàn liền. Thay đổi nhỏ ấy đã
có giá trị như một cuộc cách mạng.


Thật
thế, sự thay đổi nhỏ nhặt ấy đã làm cho giá nguyên liệu giảm xuống phi
thường. Do đó, một là tiền công thợ được tăng, lợi cho dân tỉnh, hai là
phương pháp chế tạo cải tiến, lợi cho người tiêu thụ, ba là đã rất rẻ mà
tiền lãi còn gấp ba trước, lợi cho chủ xưởng.


Như thế là một sáng kiến đã đem lại ba kết quả.

Chưa
đầy ba năm, người phát minh kia trở nên giàu có, đó là một điều hay,
anh lại còn làm cho mọi người chung quanh mình cũng được giàu có, điều
đó lại càng hay hơn. Người ấy không phải là dân bản hạt. Chẳng ai biết
quê quán anh ta ở đâu. Cũng chẳng ai biết lúc thiếu thời anh ta sinh
sống như thế nào.


Nghe nói lúc mới đến Môngtơrơi, lưng vốn anh ta chẳng là bao, chỉ độ mấy trăm phơrăng là cùng.

Lưng
vốn chỉ có thế nhưng anh ta khai thác được sáng kiến ấy, lại làm ăn có
ngăn nắp và có suy nghĩ nên không bao lâu anh đã làm giàu cho mình, lại
làm giàu cho cả xứ.


Lúc anh ta mới đến, anh ăn mặc, đi đứng, nói năng như một dân thợ.

Nghe đâu anh ta lủi thủi vào thị xã Môngtơrơi
nhỏ bé này một buổi chiều tối tháng chạp, lưng đeo ba lô, tay cầm một
chiếc gậy gai. Giữa lúc ấy thì một đám cháy lớn xảy ra ở ngay hội đồng
thị chính. Chẳng quản nguy hiểm, anh ta đã lăn xả vào đám cháy cứu được
hai đứa trẻ. Hai trẻ lại chính là con viên đại úy cảnh sát trưởng. Thành
ra không ai nghĩ đến việc xét giấy thông hành của anh ta. Sau đó người
ta biết tên anh ta. Người ta gọi là
bác Mađơlen.




II

ÔNG MAĐƠLEN




Bác Mađơlen là một người tuổi độ năm mươi, có vẻ đăm chiêu và lại hảo tâm. Người ta chỉ biết có thế.

Nhờ người ấy chấn chỉnh công nghệ làm nghề huyền nên nghề ấy phát triển nhanh chóng. Đất Môngtơrơi trở thành một trung tâm thương mại phồn thịnh. Người Tây Ban Nha tiêu thụ nhiều huyền, hàng năm đặt mua một số hàng rất lớn. Môngtơrơi
hầu như cạnh tranh cả với Luân Đôn và Béc Lin về xuất khẩu huyền. Số
tiền lời của bác Mađơlen lên nhanh đến nỗi chỉ mới năm sau, bác ta đã
dựng được một nhà máy khá lớn, ngăn làm hai xưởng rộng cho đàn ông và
đàn bà làm riêng. Ai túng đói cứ tìm đến đó, chắc chắn sẽ có việc làm và
có cơm ăn. Bác Mađơlen chỉ đòi hỏi đàn ông phải lương thiện, có chí,
đàn bà phải nết na đứng đắn và mọi người đều phải ngay thẳng thật thà.


Bác
cho đàn ông đàn bà làm việc riêng cũng là cho đàn bà con gái có thể giữ
được đức hạnh. Về khoản này, không ai lay chuyển được bác. Có lẽ đó là
điểm độc nhất của bác có phần cố chấp. Bác nghiêm khắc như vậy rất có
, vì ở Môngtơrơi có nhiều trại lính, cơ hội hư hỏng thật chẳng thiếu gì. Tóm lại, đối với người dân Môngtơrơi,
bác trước là một ân nhân sau là một vị cứu tinh. Trước kia, ở đây đời
sống tẻ ngắt, nay thì chỗ nào cũng làm ăn nhộn nhịp, không khí vui tươi
lành mạnh. Một sự giao lưu tấp nập thổi nhiệt tình và thâm nhập khắp
nơi. Không còn cảnh thất nghiệp, nghèo đói nữa. Không có cái túi áo xấu
xí nào là không xủng xoảng ít tiền, không có nhà tranh tồi tàn nào là
không có tiếng cười vui.


Bác thu dụng tất cả mọi người. Bác chỉ yêu cầu một điều: đàn ông phải lương thiện, đàn bà phải đứng đắn.

Bác
Mađơlen làm nên giàu có giữa cảnh lao động tấp nập mà bác đã tạo ra và
hiện đứng làm trụ cột. Nhưng có một điều lạ là bác không lấy việc làm ra
tiền làm mục đích chính như tất cả những người kinh doanh khác. Hình
như bác ta nghĩ đến người khác nhiều hơn. Người ta biết rằng đến năm
1820 bác ta đã để ra được một món tiền là sáu mươi ba vạn phơrăng gửi ở
ngân hàng Laphít. Nhưng trước lúc để ra số tiền đó thì bác đã chi cho
dân trong thành phố và những người nghèo khó đến hơn một triệu rồi.


Nhà thương trước kia thiếu thốn, bác ta quyên thêm cho mười giường bệnh nữa. Tỉnh Môngtơrơi
có hai khu: khu thượng và khu hạ, là chỗ bác ta ở, chỉ có một nhà
trường đặt trong một căn nhà nát sắp đổ, bác dựng hai trường mới: một
trường con gái và một trường con trai. Hai thầy giáo ở đây được bác trả
thêm một khoản phụ cấp gấp đôi số lương ít ỏi của chính phủ. Có người
lấy làm ngạc nhiên thì bác bảo: “Hai hạng công chức quan trọng nhất của
nhà nước là vú nuôi trẻ và thầy dậy học”. Bác còn bỏ tiền ra lập một nhà
phúc, có lẽ khắp nước Pháp chưa đâu có và một quỹ cứu tế cho thợ già
yếu và tàn tật.


Xưởng
công nghệ của bác trở thành một trung tâm, chung quanh đó mọc lên một
khu phố của những người nghèo khổ quây quần lấy bác. Bác tổ chức ở đây
một phòng phát thuốc làm phúc.


Buổi
đầu, thấy bác bắt tay vào việc, những kẻ tử tế nói: “Tay này định làm
giàu đây”. Đến khi thấy bác lo làm giàu cho cả xứ trước rồi mới nghĩ đến
mình sau, những người ấy lại nói: “Anh này muốn địa vị”. Điều này càng
có vẻ có

khi người ta thấy bác cũng đi dạo và chủ nhật nào bác cũng đi lễ đều
đặn. Chừng nào đó bác còn là người ngoan đạo nữa, mà hồi này người ta
trọng người ngoan lắm. Tình hình này làm ông dân biểu trong hạt quen
nhìn đâu cũng thấy kình địch, chả mấy chốc đâm lo. Ông ta trước kia có
chân trong viện lập pháp của đế chế và cùng một quan niệm về tôn giáo
với một nhà tu hành bấy giờ được phong quận công là Fusê
(Fouché:
nguyên là linh mục theo cách mạng Pháp, rồi đế chế, được cử làm Bộ
trưởng an ninh và phong công tước. Khi thấy Napoleon suy, hắn giao thiệp
với giặc ngoài, nổi tiếng vì xảo quyệt, tàn bạo, tham lam, cơ hội và
phản phúc),
ông này vừa là bạn vừa là kẻ tác thành cho ông ta.
Trong chỗ bạn bè kín miệng với nhau, ai nói đến Chúa Trời thì ông ta
cười khảy một cách nhẹ nhàng. Nhưng khi thấy nhà công nghiệp giàu có
Mađơlen theo mọi người đi đọc kinh sớm, ông ta lại đánh hơi ông này có
thể nay mai ra tranh cử với mình nên quyết tâm cho hơn hẳn. Ông ta mời
riêng một linh mục dòng Tên làm cha xưng tội, ông ta lại đi nhà thờ dự
lễ thật sớm và luôn cả lễ chiều. Thời bấy giờ tham vọng biểu hiện bằng
cuộc chạy đua đi lễ. Thành thử vì ông ta hoảng hốt mà kẻ nghèo và Chúa
lại được nhờ, bởi vì ông dân biểu đáng kính nhà ta bỏ tiền đặt thêm hai
giường nữa ở bệnh viện, vị chi mười hai giường.


Năm 1819, một sáng nọ có dư luận là ông tỉnh trưởng đã tiến cử bác Mađơlen làm thị trưởng thành phốMôngtơrơi,
để tưởng lệ công lao của bác và nhà vua cũng sắp bổ nhiệm bác. Những
người trước kia cho bác là một “tay địa vị” chộp ngay lấy cơ hội và reo
lên mừng rỡ: “Đó thấy chưa? Nói có đúng không?” tiếng đồn ầm cả thành
phố. Miệng người thế mà có căn cứ. Vài ngày sau thì chỉ dụ bổ nhiệm đăng
lên công báo. Nhưng hôm sau, bác Mađơlen từ chối.


Cũng
năm ấy, những mặt hàng sản xuất theo phương pháp do bác sáng chế được
đem trưng bày ở cuộc triển lãm công nghiệp. Căn cứ vào báo cáo của hội
đồng giám khảo, nhà vua tặng thưởng bác huân chương bắc đẩu bội tinh.
Lại một phen đồn đại. Coi nhé! Huân chương anh ta mới thích cơ! Nhưng
bác lại từ chối.


Quả thật bác là người khó hiểu. Những kẻ hiền lành bí quá, phán liều: “Dẫu sao thì cũng là một loại giang hồ bạt tử thôi”.

Cả
tỉnh được nhờ bác ta nhiều, những người nghèo đói hoàn toàn nhờ bác ta
mà được no ấm. Công đức như thế nên dù thế nào mặc lòng, cuối cùng người
ta cũng phải kính nể. Hiền như thế thì dù thế nào người ta cũng đem
lòng yêu. Nhất là thợ thuyền làm trong xưởng thì thật quý mến bác ta:
Bác ta nhận sự quí mến của họ một cách trang trọng nhưng trong sự trang
trọng ấy có phảng phất vẻ u hoài.


Khi
ai nấy đều biết rằng bác giàu rồi thì đám tai mắt hàng tỉnh vồn vã chào
hỏi bác và gọi: “Ông Mađơlen”. Thợ thuyền và trẻ con cứ gọi ông là bác
Mađơlen, điều ấy mới thật sự làm ông vui sướng. “Xã hội” vẫy tay kêu gọi
ông. Những phòng khách kiểu cách ở đất Môngtơrơi có lẽ không đời nào
tiếp anh thợ lúc ban đầu, thì bây giờ mở toang cửa để chờ đón nhà triệu
phú. Người ta săn đón ông bằng đủ mọi cách. Ông vẫn lãng tránh.


Lần
này, những kẻ hiền lành không tiếc lời: “Tay ấy là dân hạ đẳng ngu dốt.
Chẳng biết là con cái nhà ai. Chẳng biết cách giao thiệp trong giới
thượng lưu đâu. Và hình như mù chữ thì phải”.


Trước
kia, thấy ông làm ra tiền, họ bảo ông là một chú lái buôn. Khi thấy ông
đem tiền ra rắc vãi thì họ bảo ông là một thằng địa vị. Khi thấy ông từ
chối địa vị thì họ bảo là một đứa giang hồ bạt tử. Bây giờ thấy ông
lảng tránh các xã hội thượng lưu thì họ bảo là một thằng thất phu.


Đến
năm 1820, nghĩa là năm năm sau khi ông đến Môngtơrơi, công đức của ông ở
đất đó to lớn quá, nguyện vọng của nhân dân nhất trí quá, nên triều
đình một lần nữa lại cử ông làm thị trưởng thành phố. Lần này ông cũng
lại từ chối. Viên tỉnh trưởng nhất định không chịu, hàng thân hào yêu
cầu ông, nhân dân van xin ông ngay giữa phố, sự yêu cầu khẩn khoản quá
nên cuối cùng ông phải nhận. Có người thấy một bà già dân nghèo đứng
ngay giữa cửa mà quát ông một cách gần như giận dữ: “Một ông thị trưởng
tốt là lợi cho dân lắm chứ. Có dịp làm điều hay cho dân chúng sao bác
lại từ chối hở?” Hình như câu nói ấy đã làm cho ông dứt khoát nhận lời.

Ông lên bậc thang danh vọng thế là lần thứ ba. Bác Mađơlen đã thành ông Mađơlen. Ông Mađơlen nay thành ông thị trưởng.

III

TIỀN GỬI NGÂN HÀNG LAPHIT


Bao
giờ ông Mađơlen cũng giữ tác phong giản dị như những ngày mới đến. Mắt
nghiêm chỉnh, tóc hoa râm, da rám nắng như một người thợ nhưng vẻ mặt
thì đăm chiêu như một triết gia. Thường ngày ông đội mũ rộng vành, mặc
áo phủ ngoài bằng dạ thô, gài cúc lên đến cổ, ông giữ chức thị trưởng
song ngoài giờ làm việc công, ông ở riêng một mình, không hay vui
chuyện. Ông lẩn tránh sự vồ vập của kẻ khác, gặp ai ông chào qua, r
i
tháo ngay. Ông mỉm cười để khỏi phải nói chuyện và giúp đỡ để khỏi phải
mỉm cười. Đám phụ nữ gọi ông là “một con gấu lành”. Ông chỉ thích đi
dạo chơi ở ngoài đồng.

Ông
ăn cơm một mình, mắt không rời quyển sách lúc nào cũng để trước mặt.
Ông có một tủ sách khá đầy đủ. Ông rất ưa đọc sách; sách là những người
bạn ít chuyện, tin cậy được. Càng giàu thì càng nhàn, ông dùng thì giờ
nhàn rỗi để học tập. Người ta thấy rằng mỗi năm, cách ăn nói của ông mỗi
thêm lịch sự, tinh tế và dễ ưa.

Khi
đi dạo chơi, ông thường mang theo một khẩu súng nhưng ít khi dùng đến.
Thảng có bắn một phát thì ông bắn nhất định trúng, ai cũng khiếp ông bắn
cừ. Chẳng bao giờ ông giết một con vật vô hại, chẳng bao gờ ông bắn một
con chim nhỏ.

Ông
đã luống tuổi mà người ta đồn ông khỏe lắm. Ai cần đến việc gì ông cũng
sẵn sàng giúp một tay; nâng một con ngựa quỳ lên, đẩy một chiếc xe
sa lầy, nắm sừng giữ lại một con bò đực sổng.
nhà ra đi, túi ông đầy tiền hào, lúc quay về thì hết nhẵn. Ông đi qua
thôn nào lũ trẻ con rách rưới cũng vui mừng chạy theo và quấn lấy ông
như một đàn ruồi.

Người
ta đoán là trước kia ông đã làm nghề nông, cho nên mới có nhiều những
kinh nghiệm quí để mách bảo cho người làm ruộng như thế. Ông bày cho họ
rưới nước muối lên ván kho để trừ sâu lúa mì, treo hoa oóc vi ô trên
tường và trên mái nhà để trừ mọt. Ông có những bí quyết để trừ tiệt
nhiều giống cỏ làm hại lúa. Ông biết cách nhốt một con chuột chù trong
chuồng thỏ để chuột cống thấy hôi phải l
ãng tránh, không vào ăn thỏ con.

Một hôm thấy người ta bận rộn nhổ dền gai, ông nhìn đống cây nhổ đã héo khô mà bảo:
- Hỏng rồi! Ấy, cây này nên biết cách thì cũng dùng được. Lá dền gai non là một thứ rau
rất tốt. Thân cây già có thể tước sợi như gai hay đay, vải dền cũng tốt
như vải gai đấy. Cây dền bằm đi gà vịt thích ăn, xay dập thì bò dê lại
càng ưa lắm. Hạt dền rắc vào cỏ khô, đem cho thú vật ăn thêm mượt lông.
Đun rễ d
n
pha với muối thì thành một nước nhuộm màu vàng trông rất đẹp đấy. Dền
còn là một thức lương khô tốt cho súc vật, có thể cắt hai bận. Thế mà
dền có đòi hỏi công phu gì mấy? Một ít đây thôi, chứ không phải trồng
trọt, không phải chăm nom. Chỉ có điều là hạt chín đến đâu rơi rụng đến
đó nên khó hái. Thế thôi, chịu mất công một chút thì dền gai sẽ có ích.
Người ta đã bỏ phế nó, cho nên nó hóa ra cỏ dại. Rồi người ta buộc phải
giết nó. Bao nhiêu con người
cũng giống như thứ dền gai ấy.

Ông ngừng một lát rồi nói thêm:
-
Các bác ạ, các bác nên nhớ lấy điều này, là không có cỏ dại, cũng như
không có người xấu. Chỉ có những người không biết trồng trọt chăm nom mà
thôi.

Trẻ con thích ông vì ông biết lấy cọng rơm và sọ dừa làm ra các thứ đồ chơi xinh xinh.
Thiên
hạ thích đi xem rửa tội, còn ông, ông hay đến viếng các đám tang. Cho
nên, đi qua nhà thờ, hễ thấy trước cửa có treo vải đen là ông đi vào
ngay. Cảnh góa bụa đau thương của kẻ khác cuốn hút ông vì ông có lòng
thương người đằm thắm. Ông đến, ông hòa mình với bạn bè, thân quyến đang
đau buồn, với các nhà tu hành đang cầu kinh rầu rầu, thảm thiết. Những
bài ca điếu vong ấy, chứa đầy viễn ảnh về một thế giới nào khác. Dường
như ông muốn lấy những bài ca ấy làm cơ sở để suy tưởng. Mắt nhìn lên
cao, tâm trí như theo cõi vô biên huyền bí, ông lắng nghe những giọng
buồn buồn kia đang như réo rắt trên bờ vực sâu của cõi chết tối tăm.

Ông
làm vô khối việc thiện mà giấu giếm như người ta làm việc ác. Đợi nhá
nhem tối ông mới lẻn vào nhà người ta, rón rén trèo lên thang gác. Có
anh kiết xác đi cả ngày, tối chui về ổ, ngạc nhiên thấy cửa ngõ nhiều
khi bị ẩy ra, trong lúc đi vắng. Tưởng có trộm, anh tức tối. Khi vào
trong nhà, anh trông thấy một đống tiền vàng ai bỏ quên trên bàn. Tên kẻ
trộm lẻn vào nhà đó là bác Mađơlen.

Tính
ông ân cần nhưng sao buồn buồn thế nào ấy. Dân chúng bảo: “Ông này quả
là một người giàu mà không kiêu, một người sung sướng mà không vui”.

Đôi
người nói liều rằng ông ta là một nhân vật bí hiểm và quả quyết rằng
chẳng ai được vào phòng ông bao giờ, phòng ông đúng là một chỗ ở của đạo
sĩ, có bình cát chắp cánh và trang hoàng bằng những ống xương chân bắt
chéo và những cái đầu lâu. Người ta truyền nhau điều này dữ quá, đến nỗi
có mấy thiếu phụ sang trọng và láu lỉnh, một hôm phải kéo nhau đến nhà
ông, đòi xem: “Thưa ông thị trưởng, xin ông cho chúng tôi xem phòng ở
của ông, người ta bảo nó là một cái hang”. Ông mỉm cười và ngay lập tức
đưa các bà vào “cái hang ấy”. Các bà tò mò nhà ta thật đã được một mẻ
hẫng. “Cái hang” chỉ là một căn buồng bàn ghế hẳn hoi có điều là loại
bàn ghế gỗ xấu xí và chung quanh tường đều phủ bằng thứ giấy rẻ tiền.
Các bà nhà ta xoi mói mãi chỉ để ý thấy có một cặp chân đèn hình dáng
rất cổ đặt trên lò sưởi và có vẻ là bằng bạc.

Mặc
dù vậy, người ta vẫn cứ tiếp tục truyền nhau là chẳng ai được vào căn
phòng ấy và nó chẳng khác gì một cái động ẩn sĩ, một cái gác mơ mòng,
một hang tối, một ngôi mộ.

Thiên
hạ còn thì thầm với nhau rằng ông có những món tiền rất lớn gửi ở ngân
hàng Laphit với điều kiện là muốn lấy ra lúc nào cũng được. Với điều
kiện ấy, bất kỳ lúc nào ông cũng có thể đến nhà ngân hàng, ký một tờ
giấy biên nhận, thế là rút ra ngay hai, ba triệu, công việc làm xong
trong mười phút. Thực ra, số tiền hai, ba triệu người ta đồn ấy chỉ là
sáu mươi ba hoặc sáu mươi tư vạn phơrăng mà thôi.


IV

ÔNG MAĐƠLEN ĐỂ TANG


Đầu năm 1821, các báo chí đăng tin ông giám mục thành Đinhơ là Mirien, tục gọi là Đức Cha Biêngvơnuy tạ thế trong phép đạo, hưởng thọ tám mươi hai tuổi.
Các
báo bỏ qua một chi tiết là ông giám mục bị mù đã mấy năm trước khi mất.
Ông bị mù nhưng có bà em bên cạnh nên ông vẫn yên tâm.

Trong
cuộc đời chẳng có gì hoàn bị này, mù lòa mà được kính yêu là một hình
thức hạnh phúc lạ lùng và ý nhị nhất. Hỏi có hạnh phúc nào sánh bằng
luôn luôn có bên mình một người đàn bà, một cô gái, một cô em, một con
người đáng yêu, họ có mặt vì ta cần đến họ và vì họ không thể không có
ta? Bằng biết ta không thể thiếu được đối với kẻ ta rất cần? Có hạnh
phúc nào hơn thường xuyên đo được lòng thương yêu của họ đối với ta bằng
ngày giờ họ có mặt bên ta và tự bảo: “Họ bỏ hết thì giờ để chăm nom ta,
ấy là ta chiếm hết trái tim họ?” Có gì sung sướng hơn nhìn được ý nghĩ
họ khi không nhìn được gương mặt, biết lòng trung thành của họ đối với
ta hãy còn sáng chói khi cả vũ trụ trước mắt ta đã tối sầm lại? Rồi cảm
thấy tà áo họ sột soạt nhẹ nhàng như đôi cánh đang vỗ bay, nghe thấy
được họ đi lại, ra vào, nói năng, ca hát và nghĩ rằng ta là trung tâm
chú ý của những những bước đi ấy, những lời nói, những câu hát ấy, hằng
giây hằng phút chứng tỏ rằng ta có sức hấp dẫn, càng tàn tật ta càng có
quyền lực và tuy phải sống trong bóng tối nhưng chính lại nhờ bóng tối
mà ta trở thành ngôi sao cho họ châu tuần chung quanh, thử hỏi trên đời
được bao nhiêu niềm vui sánh kịp?

Hạnh
phúc lớn nhất trong đời ta là tin chắc mình được yêu, được yêu vì bản
thân mình, được yêu bất chấp cả mình! Ông giám mục mù mà có được niềm
tin ấy. Bởi vì trong cơn hoạn nạn ông đã được đỡ đần chăm sóc, ông đã
được trìu mến vuốt ve. Cho nên ông có thiếu thốn gì đâu! Ánh sáng ông
cũng không mất vì ông đã có tình yêu, một thứ tình yêu cao quí biết bao,
vì nó là của một trái tim vô vàn đức hạnh. Hễ đã tin chắc thì không còn
mù được nữa. Tâm hồn dò dẫm đi tìm một tâm h
n
và đã tìm ra. Tâm hồn đã tìm được, đã từng qua thử thách, đó là một
người đàn bà. Ta cần một bàn tay nâng đỡ chăng? Có bàn tay của người.
Một ai hôn nhẹ lên trán ta? Đó là môi người. Ta nghe một hơi thở ngay
cạnh ta, đó là người. Người cho ta tất cả, từ lòng thương yêu, đến niềm
kính mến. Người có bao giờ rời ta, người đem tấm lòng nâng niu chiều
chuộng cứu giúp ta, đem tấm thân liễu yếu mà vững như thành đồng cho ta
làm chỗ dựa, người như đấng cứu tinh ta sờ được trên tay và ôm được
trong lòng, chao ôi, ta ôm được người hay ta ôm được Chúa! Vui sướng
biết là bao! Còn trái tim ta, đóa hoa âm thầm của trời cao, trái tim ta
đang nở ra một cách huyền bí. Có cho ta tất cả ánh sáng trên đời ta cũng
không đánh đổi cái bóng âm thầm ấy.

Người
đàn bà kia, tâm hồn thiên thần kia đang còn đó, luôn luôn còn đó; có xa
thì rồi lại gần; có tan đi trong mộng thì rồi lại hiện về trong cảnh
thực. Ta thấy như hơi ấm từng bước từng bước lại gần ta, đó là người
đến. Ta thấy tâm hồn ta xiết bao thanh tĩnh, xiết bao vui thú, say sưa,
ta thấy ta như mặt trời đang chói đang chói sáng trong đêm. Lại còn muôn
vàn những chăm lo tỉ mỉ, những cái không đâu mà vô cùng to lớn trong
cảnh trống không. Những uyển chuyển du dương của giọng đàn bà dịu dàng
khôn tả vỗ như ru, như thay thế cho hết thảy những gì trong vũ trụ nay
không còn trông thấy nữa. Không phải bàn tay âu yếm mà tâm hồn âu yếm.
Không trông thấy gì, mà lại thấy được yêu thương. Thật là một cảnh thiên
đường trong bóng tối.

Ông
giám mục đã từ thiên đường này mà bước sang thiên đường kia. Tin buồn
ấy được đăng lại trên tờ báo tỉnh Môngtơrơi. Hôm sau, ông Mađơlen bận đồ
đen ra đường, trên mũ c
ó cái băng tang.

Mọi
người chú ý đến chuyện đó và bàn tán xôn xao. Người ta cho đó là một
tia sáng rọi vào lai lịch ông Mađơlen. Chắc ông phải có họ hàng gì với
ông giám mục đáng kính! Đám thượng lưu bảo nhau ở phòng khách. “Lão để
tang ông giám mục thành Đinhơ”. Điều đó làm tăng uy tín của ông nhiều và
tự nhiên thấy họ kính nể ông khác trước. Cái xã hội quí tộc nh

xíu ở các tỉnh nhỏ ấy thôi không làm cao với ông vì ông có họ với một
vị giám mục. Gặp họ, ông Mađơlen thấy mình được các bà già nghiêng chào
cẩn thận hơn và những bà trẻ niềm nở hơn. Một buổi tối, một bà phu nhân
có tuổi cho mình có quyền thóc mách vì có tuổi, hỏi ông:

- Ông thị trưởng là em họ cụ cố giám mục thành Đinhơ đấy à?
- Thưa bà không ạ.
- Ông để trở cụ giám kia mà? (để tang)
- Vì là hồi nhỏ tôi ở hầu trong nhà cụ.
Người
ta còn nhận thấy một điều nữa là mỗi khi có một thằng bé Xavoa nào đến
trong vùng hỏi thông ống khói thì ông Mađơlen cho gọi vào hỏi han tên họ
và cho tiền. Bọn trẻ Xavoa bảo nhau qua lại nơi ấy rất đông.


V

CHÂN TRỜI CÓ DẠNG CHỚP


Lâu
dần, những sự chống đối cũng tiêu tan hết. Lúc đầu, ông Mađơlen cũng bị
người ta bôi nhọ, vu khống như thói thường đối với những người thành
đạt trong xã hội, nhưng một thời gian thì chỉ còn những câu ác ý và sau
đó thì là những lời nói kháy, nói mỉa, cuối cùng thì tất cả đều biến
hết. Đối với ông, mọi người đều một lòng kính yêu sâu sắc.

Vào khoảng năm 1821, người ta đã nói tới ông thị trưởng Môngtơrơi với tt cả sự thành kính cũng như người ta đã nói tới ông giám mục thành Đinhơ
vào khoảng năm 1815. Trong vòng mười dặm, nhân dân đều đến nhờ ông dạy
bảo. Ông hòa giải những đám xích mích, ông ngăn ngừa những sự kiện tụng,
ông giúp những kẻ thù làm lành với nhau. Ai cũng muốn nhờ ông phân xử
hộ. Lòng chính trực của ông là một bộ luật tự nhiên.

Sự tôn sùng truyền từ người này sang người khác, trong sáu bảy năm đã lan tràn dần ra khắp xứ.
Cả
tỉnh chỉ có một người nhất quyết không chịu nhiễm sự sùng bái ấy. Mặc
cho ông Mađơlen làm gì thì làm hắn một mực không phục, tựa hồ như có một
thứ linh khiếu nào vững chắc và khó lung lạc cho hắn luôn cảnh giác và
đề phòng.


những con người nào đó hình như có một bản năng thú vật thật sự, thuần
nhất, không thể pha trộn. Nó giúp con người biết lánh cái này và biết ưa
cái kia, biết phân biệt dứt khoát bản chất này với bản chất nọ. Nó làm
cho con người không do dự, không bối rối, không chịu im lặng và cũng
không bao giờ chịu thay đổi ý kiến. Con người dựa vào nó mà tin m
ình
luôn luôn sáng suốt, không sao có thể sai lầm, mọi người phải nghe mình
chứ mình không bao giờ chịu nghe ai, dù đó là lời khuyên của trí tuệ,
lời phản kháng của lý trí. Và mặc dù số mệnh có sắp đặt con người ở địa
vị xã hội nào, thì bản năng này cũng giúp cho loại người này đánh hơi
thấy kẻ gian, cũng như chó ngửi thấy hơi mèo, sư tử đoán biết có cáo.

Đó
là một người cao lớn, mặc áo ngoài màu xám, cầm một chiếc can to tướng
và đội cái mũ cụp vành. Nhiều khi thấy ông Mađơlen đi ngoài phố điềm
tĩnh, ân cần, được mọi người trìu mến, hắn quay ngoắt lại, nhìn đăm đăm
theo ông mãi cho đến khi khuất. Lúc ấy hắn khoanh hai tay lại, lắc lư
cái đầu chầm chậm, dùng môi dưới đẩy môi trên lên tận mũi. Cái nhăn nhó
này có ý nghĩa:

- Quái thật, người này là ai? Rõ ràng ta đã gặp hắn ở đâu rồi. Dẫu sao ta cũng không mắc lừa hắn.
Con người ấy với cái vẻ nghiêm nghị gần như đe dọa, là hạng người nhác thấy một lần đã phải chú ý.
Tên hắn là Giave. Hắn làm việc ở sở cảnh sát.

Môngtơrơi hắn giữ một chức vụ nặng nề nhưng ích lợi, là chức thanh tra
mật thám. Hắn không được chứng kiến những bước đầu kinh doanh của ông
Mađơlen. Giave được giữ chức ấy là nhờ có quan thầy là ông Sabuiê, bí
thư của ông bộ trưởng, bá tước Angơle, lúc bấy giờ là giám đốc sở cảnh
sát Paris. Khi Giave đến Môngtơrơi thì người chủ xưởng đã trở thành
triệu phú và bác Mađơlen đã trở thành ông Mađơlen rồi.


những tên sĩ quan cảnh sát trông tướng mạo khác biệt, trong đó có cái vẻ
vừa hèn hạ vừa oai nghiêm. Giave có cái tướng mạo ấy nhưng không có vẻ
hèn.

Nếu
linh hồn mà nhìn thấy được thì chắc rằng người ta sẽ nhận ra một điều
kỳ lạ là mỗi con người lại ứng với một con vật, cũng như người ta sẽ
nhìn được dễ dàng cái chân lý mà nhà tư tưởng chỉ mới hé thấy qua, là từ
con sò đến chim phượng hoàng, từ con lợn đến con hổ, tất cả các loại
thú đều chứa đựng trong con người và mỗi một con người đều chứa đựng một
con vật. Có khi nhiều con vật một lần.

Thú
vật chẳng qua là hình dáng của đức hay tật xấu chúng ta, lang thang
trước mắt chúng ta, là bóng ma trông thấy được của linh hồn. Chúa bày ra
cho chúng ta xem để chúng ta suy nghĩ. Chỉ có một điều thú vật chỉ là
những cái bóng nên Chúa không muốn cho có thể cải tạo chúng được. Vả
chăng cải tạo để làm gì? Trái lại, linh hồn chúng ta là những cái có
thật, có cứu cánh riêng biệt, cho nên Chúa đã ban cho trí thông minh,
nghĩa là khả năng thụ giáo. Một linh hồn dù xấu đến đâu đi nữa, một nền
giáo dục xã hội tốt cũng luôn luôn có thể rút ra từ đây một cái gì có
ích.

Tất
nhiên trên đây chỉ giới hạn trong phạm vi cuộc sống trần tục bên ngoài
mà nói, chứ không có ý kiến gì về vấn đề kiếp trước kiếp sau của các
sinh vật không phải là người. Cái tôi nhìn thấy trước mắt không cho phép
nhà tư tưởng phủ nhận cái tôi tiềm tàng. Chỉ xin có lời dè dặt như vậy,
và thôi.

Bây
giờ, nếu mọi người chấp nhận chốc lát cái điều chúng tôi vốn đinh ninh
là trong bất cứ người nào cũng có một con vật, thì chúng ta sẽ nói được
rất dễ dàng tay nhân viên an ninh Giave là con người như thế nào.

Nông
dân vùng Atxtuyri quả quyết rằng lứa nào sói đẻ cũng có lẫn một con
chó, đẻ ra là sói mẹ cắn chết ngay, nếu không lớn lên chó sẽ ăn thịt hết
sói con.

Con chó do sói đẻ ấy, cho nó một cái mặt người, thì đó là Giave.
Giave
đẻ ra ở trong ngục, mẹ là một mụ bói bài tây, cha là một tên tù khổ sai
phục dịch chiến hạm. Lớn lên, hắn tự cho là ở ngoài rìa xã hội sống như
mọi người. Hắn nghiệm ra rằng có hai hạng người luôn luôn phải ở ngoài
vòng xã hội, đó là những người xâm phạm nó và những người bảo vệ nó; hắn
chỉ còn có một đường là chọn trong hai hạng người ấy. Đồng thời hắn tự
thấy có một bản lĩnh cứng nhắc, đứng đắn và thẳng thắn, pha thêm một ác
cảm cao độ đối với giống người du đãng trong ấy vốn có cha mẹ hắn. Vì
thế, hắn vào làm cảnh sát.

Hắn đã thành công. Bốn mươi tuổi, hắn là thanh tra. Lúc thiếu thời hắn đã là lính canh ngục ở miền Nam.
Trước lúc đi sâu vào câu chuyện, hãy đồng ý với nhau về cái nghĩa của từ mặt người sẽ đem dùng với Giave dưới đây.
Cái mặt người ấy ở Giave như sau:
Mũi
Giave tẹt, có hai lỗ sâu hoắm; hai bên má hắn có hai chòm râu rậm mọc
ngược lên đến chân mũi. Lần đầu nhìn hai cái rừng ấy và hai cái hang ấy,
ai cũng thấy khó chịu. Khi hắn cười, - nghĩa là họa hoằn lắm và dễ sợ
lắm – thì đôi môi mỏng dính dang ra, phơi bày nào răng nào lợi. Lúc ấy,
chung quanh cái mũi là cả một vệt nhăn nhúm man rợ, trông như mõm ác
thú. Giave mà nghiêm nét mặt thì là một con chó dữ. Khi cười hắn lại là
một con cọp. Lại còn cái trán hẹp, cái hàm bạnh, tóc tỏa xuống tận chân
lông mày, giữa hai con mắt lúc nào cũng có một nếp nhíu trông như luôn
luôn giận dữ, cặp mắt tối tăm, khó hiểu, miệng thì mím lại một cách khắc
nghiệt đáng sợ, cả người hắn toát ra một thứ quyền uy tàn ác.

Người
ấy trong tâm lý có hai ý thức rất đơn giản và có thể coi là tốt, nhưng
vì hắn cường điệu lên quá cho nên lại thành xấu. Hắn tuyệt đối phục tòng
cấp trên và thù ghét mọi hành động nổi loạn. Đối với hắn, trộm cắp,
giết người, tất cả các tội trọng đều là những hình thức nổi loạn. Hắn
tin tưởng tuyệt đối và mù quáng ở tất cả những người có giữ một chức vụ
trong bộ máy nhà nước, từ ông thủ tướng đến bác tuần phiên. Hắn lại
khinh bỉ, thù hằn và ghê tởm tất cả những ai trót một lần phạm vào luật
pháp. Tính hắn rất là cực đoan và không khoan thứ một ngoại lệ nào: “Đứa
phạm tội thì trọn đời mãn kiếp là đồ bỏ đi. Không mong gì chúng được”.

Hắn
rất tán thành ý kiến của bọn cực đoan đã cho phép luật trần gian có
quyền lực dúi người xuống địa ngục và đã bày ra một cảnh Thập điện ở chỗ
dưới cùng của xã hội chúng ta.

Lúc
nào hắn cũng khắc khổ, nghiêm nghị, tư lự, kiêu hãnh mà hạ mình như
những người cuồng tín. Cái nhìn của hắn xoáy vào da thịt người ta như
một mũi khoan, vừa lạnh lùng, vừa xoi mói. Cả cuộc đời của hắn thu gọn
trong hai chữ: tỉnh táo và canh phòng. Hắn thẳng như mực tàu ở một nhiệm
vụ ngoắt ngéo nhất, hắn biết công việc của hắn có ích cho người ta, hắn
tôn thờ chức vụ của hắn, hắn làm mật thám một cách kính cẩn như người
ta làm mục sư. Vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay hắn! Ví thử cha hắn vượt
ngục, hắn cũng cứ bắt; mẹ hắn phạm pháp, hắn cũng cứ tố cáo. Hắn làm các
công việc ấy một cách đắc ý như người ta làm việc thiện. Thêm vào đó,
một đời sống khổ hạnh, cô độc, quên mình, trong sạch, không bao giờ vui
đùa. Hắn là hiện thân của nhiệm vụ cứng rắn, của an ninh khắc nghiệt, là
một anh lính canh phòng không nể nang, là một thứ lương thiện đáng sợ,
một tên tố giác lạnh lùng, là công lý dưới mặt mũi một hung thần.

Tất
cả con người Giave thể hiện sự rình mò, lén lút. Hồi bấy giờ, trên mặt
báo chí của phái siêu bảo hoàng thường thấy gia vị những bài về lịch sử
vũ trụ của một trường phái thần bí! Giá những bài ấy đề cập đến Giave
thì chắc hẳn sẽ cho hắn là một biểu tượng. Không thấy trán vì cái mũ sùm
sụp; không thấy mắt vì lông mày rậm, không thấy cằm vì chiếc khăn quàng
quấn kín cổ, không thấy tay vì tay thọc vào túi áo rộng, không thấy gậy
giấu dưới áo. Nhưng khi cần thì đột nhiên mọi cái ấy từ trong bóng tối
xông ra như một đoàn quân phục kích: cái trán hẹp và gồ, con mắt ác, cái
cằm khiếp người, hai bàn tay hộ pháp và chiếc dùi cui tướng.

Những
lúc rỗi rãi, mà Giave ít khi rỗi, hắn có đọc sách tuy ghét sách vở. Bởi
thế hắn không đến nỗi là người dốt lắm. Cứ nghe văn nói cầu kỳ của hắn
thì biết.

Hắn
không có một tật xấu gì, như ta đã nói. Khi nào đắc ý, hắn tự thưởng
cho mình một mồi thuốc lá. Hắn còn có chút gần nhân loại là ở chỗ đó.

Giave là sự kinh hoàng của bọn người mà hồ sơ tư pháp gọi chung là hạng lưu manh. Nghe đến tên Giave là họ tháo chạy, nhìn thấy mặt Giave là họ chết đứng.
Đó là con người ghê gớm.
Giave
như một con mắt luôn dán lên người ông Mađơlen. Nghi ngờ và thóc mách.
Ông Mađơlen cũng nhận thấy thế, nhưng hình như ông coi thường cái đó.
Ông chẳng hề hỏi Giave; ông không tìm hắn cũng không lánh hắn, làm như
không chú
ý gì đến cái nhìn khó chịu và nặng nề của hắn. Ông đối xử với Giave cũng thoải mái và tử tế như đối với mọi người.


mấy câu Giave lỡ lời nói hở, người ta đoán hắn đang bí mật dò xét hành
tung trước kia của ông Mađơlen. Sự tò mò của hắn vừa là do bản năng, vừa
là có
ý
thức. Có khi hắn nói úp mở là có người đã điều tra ở một nơi nào đó về
một gia đình nào đó đã mất hút. Một lần, hắn lẩm bẩm nói một mình: “Ta
chắc nắm được nó rồi!” Rồi hắn nghĩ ngợi rất lung trong ba ngày liền,
không nói năng gì cả. Hình như cái đầu mối hắn tưởng như nắm được lại
đứt mất hay sao ấy!

Thật
ra, trong con người, không có một năng khiếu nào là tuyệt đối không bao
giờ lầm lẫn. Điều này là sự điều chỉnh cần thiết đối với những từ có
nghĩa là quá tuyệt đối. Tính chất của bản năng là có thể loạng choạng,
lạc đường, mất dấu. Nếu không bản năng đã hợp
trí và vật đã hơn người! Giave tất nhiên có ngại ngùng trước thái độ bình tĩnh hoàn toàn và rất thản nhiên của ông Mađơlen.

Thế mà một hôm cái điệu bộ lạ lùng của hắn đã làm ông Mađơlen chột dạ. Câu chuyện ấy như thế này.



Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:34 pm

VI

CỤ PHÔSƠLƠVĂNG



Sáng
hôm ấy, ông Mađơlen đi qua một phố nhỏ không lát đá. Ông nghe tiếng ồn
ào và thấy có đám đông. Đến nơi thì là một ông lão tên là Phôsơlơvăng bị
cỗ xe đè lên người vì con ngựa kéo xe ngã quỵ.

Lão Phôsơlơvăng là một trong số rất ít người còn nuôi ác cảm với Mađơlen. Phôsơlơvăng nguyên là thư văn khố và là một nông dân biết chữ nghĩa. Lúc ông Mađơlen đến Môngtơrơi, lão đang kinh doanh buôn bán nhưng bắt đầu thua lỗ.
Thấy
cái anh thợ quèn ở đâu đến ấy làm giàu vùn vụt còn lão, hạng chủ, lại
cứ lụn bại dần, lão đâm ghét cay ghét đắng ông Mađơlen. Lão không bỏ lỡ
một dịp nào có thể làm hại ông. Sau Phôsơlơvăng bị vỡ nợ, tuổi già, vợ
con chẳng có ai, cơ nghiệp chỉ còn lại có cỗ xe và con ngựa, lão phải
đánh xe chở thuê để nuôi thân.

Hôm
ấy con ngựa bị gẫy hai bên đùi không thể đứng dậy được. Lão bị chẹt
dưới gầm xe giữa hai bánh. Khốn khổ lão ngã xuống thế nào mà cả cỗ xe đè
lên ngực lão. Xe thì xếp đầy hàng nặng. Lão đương kêu rên thảm thiết.
Mọi người đã thử kéo lão ra nhưng vô hiệu. Vả lại, chỉ chuyển sai một
cái, xê dịch vụng về một tí hoặc đẩy không đúng chỗ là giết chết lão
ngay. Muốn gỡ cho lão, chỉ còn mỗi một cách là nâng cái xe từ dưới lên.
Giave cũng vừa đến đấy lúc xảy ra tai nạn; hắn đã sai người đi tìm một
cái kích.

Ông Mađơlen đến, mọi người kính cẩn dạt ra. Lão Phôsơlơvăng vẫn kêu:
- Ai cứu tôi với. Ai là người tốt bụng làm phúc cứu gìa này.
Ông Mađơlen hỏi các người đứng quanh đó:
- Có kích không?
Một người nông dân đáp:
- Đã có đi mượn rồi.
- Phải chờ bao lâu?
- Chỗ gần nhất là ở phố Phơlasô, có anh thợ đóng móng ngựa. Nhưng thế nào cũng phải mất mười lăm phút là ít.
Ông Mađơlen kêu lên:
- Mười lăm phút ư!
Hôm
trước trời vừa mưa, đường đất lầy nhão, nên cái xe cứ lún dần xuống và
ép ngực ông già. Trong năm phút nữa chắc chắn là lão sẽ gãy hết xương
sườn.

Ông Mađơlen quay lại:
- Không thể đợi mười lăm phút được đâu!
- Cũng phải đợi chứ biết làm thế nào?
- Đợi thì không kịp mất! Các bác không trông thấy xe mỗi lúc một lún sâu xuống đấy à?
- Có thấy chứ ạ!
-
Thế này nhé. Ở dưới gầm xe còn vừa đủ chỗ cho một người chui vào lấy
lưng nẩy xe lên. Chỉ cần nửa phút thôi đủ kéo ông lão ra. Ở đây ai có
lòng thương người và có sức khỏe? Tôi xin biếu đồng năm lu-i vàng.

Không ai nhúc nhích.
- Mười đồng.
Mọi người cúi mặt. Có ai lầm bầm:
- Phải là người khỏe ghê gớm lắm mới làm nổi.
- Không khéo lại chết bẹp theo nữa!
Ông Mađơlen lại bảo:
- Thế nào? Hai mươi đồng vàng đấy!
Vẫn im lặng. Có ai nói:
- Không phải là người ta không có bụng tốt.
Ông Mađơlen quay lại, trông thấy Giave. Lúc mới đến, ông không trông thấy hắn, Giave nói tiếp:
- Chỉ thiếu sức khỏe thôi. Lấy lưng mà nâng một cái xe nặng thế này, phi người nào có sức khỏe ghê gớm thì ai làm nổi.
Rồi hắn nhìn chòng chọc vào mặt ông Mađơlen và nhấn từng tiếng:
- Thưa ông Mađơlen, bình sinh tôi chỉ biết có mỗi một người có thể làm nổi cái việc ông nói đó.
Ông Mađơlen giật mình.
Giave thản nhiên nói tiếp, mắt không rời ông Mađơlen:
- Đó là một tên tù khổ sai.
- Thế à?
- Ở nhà lao Tu-lông.
Ông Mađơlen tái mặt.
Cỗ xe từ từ lún xuống. Lão Phôsơlơvăng vừa rên vừa rú:
- Tôi chết chẹt mất! Tôi gẫy xương ức rồi! Cho cái kích! Hay gì cũng được… Trời ôi!
Ông Mađơlen nhìn quanh lượt nữa:
- Không có ai muốn lấy hai mươi đồng vàng và cứu sống ông lão tội nghiệp này ư?
Không một ai cựa quậy. Giave lại nói:
- Suốt đời tôi chỉ biết có một người thay nổi cái kích. Đó là tên khổ sai kia.
Ông lão ở dưới xe kêu lên:
- Trời ơi! Nó nghiến bẹp tôi rồi!
Ông
Mađơlen ngẩng đầu gặp con mắt vọ của Giave chòng chọc nhìn mình. Ông
quay nhìn những người nông dân im ỉm và ông mỉm cười buồn bã. Rồi chẳng
nói chẳng rằng, ông quì sụp xuống. Mọi người chưa kịp kêu lên lấy một
tiếng thì ông đã luồn người vào dưới gầm xe. Phút chờ đợi lặng lẽ và
khủng khiếp.

Người
ta thấy ông Mađơlen nằm rạp người sát đất ở dưới cỗ xe nặng. Hai lần
ông lấy hết sức nhổm hai khuỷu tay và hai đầu gối sát nhau nhưng vô
hiệu. Ở ngoài người ta kêu ầm lên: “Bác Mađơlen! Chui ra thôi!” Lão
Phôsơlơvăng cũng bảo: “Ông Mađơlen, ông ra đi! Trời bắt tôi chết, ông
thấy đó, để mặc tôi! Kẻo lại chết bẹp cả đôi bây giờ!” Ông Mađơlen không
trả lời.

Công chúng phập phồng lo ngại. Đôi bánh xe cứ lún dần mãi xuống. Đã đến lúc ông Mađơlen có muốn chui ra cũng không được nữa.
Bỗng
nhiên cỗ xe to lớn chuyển mình rồi nhích lên từ từ, nâng đôi bánh lên
khỏi hố lầy được non nửa. Có tiếng người hổn hển kêu: “Mau lên! Hộ một
tay!” Đó là ông Mađơlen đang cố sức lần cuối.

Ai
nấy xô lại. Một người tận tâm đã làm mọi người thấy khỏe lên và hóa ra
can đảm. Hai mươi cánh tay lực lưỡng bốc hẳn cỗ xe lên.

Lão Phôsơlơvăng thoát chết.
Ông
Mađơlen đứng dậy, mặt tái mét, mồ hôi nhễ nhại, quần áo rách tơi và bê
bét những bùn. Người ta cảm động rơi nước mắt. Lão Phôsơlơvăng ôm gối mà
hôn và gọi ông là đức Chúa lòng lành. Còn ông Mađơlen thì nét mặt thật
là khó tả; vừa đau đớn vừa lộ một vẻ thoải mái cao cả. Cặp mắt của ông
bình tĩnh nhìn lại mắt Giave từ trước vẫn đăm đăm trên người ông.


VII

PHÔSƠLƠVĂNG THÀNH

NGƯỜI LÀM VƯỜN Ở PARIS


Lão
Phôsơlơvăng ngã bị sai mất một bên bánh chè. Ông Mađơlen sai người vực
lão về bện xá dành riêng cho thợ. Bệnh xá nằm ngay trong nhà máy, có hai
bà phước phụ trách. Hôm sau, khi thức dậy, lão thấy trên đầu giường có
một tờ bạc một nghìn phơrăng và mấy chữ của ông Mađơlen:
“Tôi mua lại ông cỗ xe và con ngựa”. Cỗ xe thì gẫy nát và con ngựa đã chết.

Phôsơlơvăng
khỏi bệnh nhưng đầu gối thành tật. Ông Mađơlen nhờ các bà sơ và cha xứ
giới thiệu và thu xếp cho lão vào làm vườn ở một tu viện nữ ở khu Xanh
Antoan tại Paris.

Sau
đó ít lâu, ông Mađơlen được cử làm thị trưởng. Lần đầu tiên Giave thấy
ông mang phù hiệu của người đứng đầu chính quyền địa phương, hắn như một
con chó dữ đánh thấy hơi sói trong người ông chủ mình. Từ đấy hắn cố
tránh mặt ông. Khi nào công việc quá cần thiết đòi hỏi hắn gặp ông, hắn
tỏ ra rất tôn kính.

Đất Môngtơrơi
được phồn thịnh là nhờ có ông Mađơlen. Ngoài những dấu hiệu phồn thịnh
bên ngoài ai cũng trông thấy, còn có một điểm khó thấy nhưng không kém
ýnghĩa.
Đó là một dấu hiệu rất chắc chắn. Lúc nhân dân chật vật, công ăn việc
làm thiếu thốn, sự buôn bán đình trệ, thì thuế má thu khó khăn, vì người
ta không có tiền đóng nên dây dưa và chi phí của nhà nước về việc thu
thuế rất lớn. Khi có công ăn việc làm, mọi người no đủ, thì thuế má thu
được dễ dàng và phí tổn ít. Có thể nói phí tổn thu thuế là cái nhiệt
biểu để lấy độ thịnh suy của nền kinh tế ở một vùng. Trong bảy năm, các
khoản kinh phí thu thuế ở
Môngtơrơi giảm đi được ba phần tư. Vì thế Vilen, Bộ trưởng Bộ tài chính, thường nêu Môngtơrơi làm gương cho các tỉnh khác.

Đó
là tình hình trong xứ khi Phăngtin trở về quê cũ. Không ai còn nhớ đến
chị. May thay, cánh cổng xưởng ông Mađơlen lại như một tấm lòng bạn. Khi
chị đến xin việc thì được nhận ngay vào làm ở khu phụ nữ. Công việc
chưa quen, chị làm tất nhiên không khéo, vì thế đồng lưong công nhật
cũng không là bao nhiêu. Tuy vậy cũng tạm đủ sống, thế là được rồi.


VIII

MỤ VITUYẾCNIÊNG TIÊU BA MƯƠI LĂM PHƠRĂNG VỀ KHOẢN ĐẠO ĐỨC


Phăngtin
thấy có việc làm ăn thì cũng vui được một độ. Sống lương thiện bằng hai
bàn tay lao động, đó quả là một ân huệ trời ban. Lòng ham thích lao
động trở lại với chị. Chị sắm một cái gương và sung sướng ngắm cái vẻ
tươi trẻ, mái tóc óng ả, hàm răng xinh đẹp của mình. Chị quên nhiều nỗi
cay cực trước đây, chị chỉ còn nghĩ đến con Côdét của chị và tương lại
hứa hẹn. Chị thấy sung sướng rồi. Chị thuê một căn phòng, mua chịu một
ít đồ đạc, hẹn lĩnh công trả dần, đó cũng là một tí tàn tích còn sót lại
của các sống bừa bãi trước kia.

Không thể nói là mình đã có chồng, chị cũng không dám nói là có con.
Những tháng đầu, chị gửi tiền về trả vợ chồng nhà Tênácđiê sòng phẳng. Vốn chỉ biết mấy chữ tên, chị phải thuê người viết thư hộ.
Chị thuê viết thư luôn, làm nhiều người để ý. Ở bên xưởng đàn bà người ta bắt đầu xì xào rằng Phăngtin “hay gửi thư” và “có vẻ khả nghi”.
Thiên hạ càng hay thóc mách những chuyện không can dự đến họ.
-
Tại sao ông kia lại cứ tối tối mới lần mò đến nhỉ? Sao ông nọ cứ thứ năm
thì không móc chìa khóa ở chỗ mọi bữa? Và ông ta lại cứ chọn phố nhỏ mà
đi? Sao bà này lúc nào cũng xuống xe trước khi về đến nhà? Sao cô kia
còn khối giấy viết thư đã mua thêm cặp nữa?… Có người vì muốn khám phá
những loại bí mật như trên, những việc hoàn toàn không dính dấp đến họ,
đã tiêu phí nhiều tiền của, thời giờ, công sức hơn là làm mười việc từ
thiện. Họ tò mò không vì gì cả, tò mò cho vui, tò mò chỉ vì thích tò mò
thôi. Họ theo dõi cậu kia, cô nọ hàng ngày, đứng rình hàng giờ ở góc
phố, xó tường, mặc đêm tối, mặc mưa phùn, gió rét. Họ cho tiền những đứa
đem thư, đãi rượu anh xe, người ở, mua chuộc cô sen, bà vú, lấy lòng
những người coi cổng. Để làm gì? Chẳng làm gì cả. Chỉ do cuồng
ý
muốn trông, muốn biết, muốn thông tỏ việc người. Chỉ do cái ngứa ngáy
của tật mách lẻo. Nhiều khi biết được điều bí mật của người ta, thóc
mách nói đi nói lại, phơi trần nó ra ánh sáng là đưa người ta tới đổ vỡ,
đấu gươm, phá sản, gia đình tan nát, thân thể điêu linh. Gây họa như
thế chỉ để khoái bụng là đã khám phá ra được mọi việc. Hại người ta vì
tật thóc mách chẳng vì lợi ích gì! Thật đáng buồn.


những kẻ chỉ vì ngứa miệng ba hoa mà hóa ra độc ác. Họ tán gẫu trong
phòng khách, họ thóc mách ở hành lang. Chuyện của họ giống như những lò
sưởi xấu, phải bỏ vào rất nhiều củi. Củi ở đây là người khác, người
chung quanh.

Thế là bọn ấy có Phăngtin.
Đã vậy, Phăngtin lại bị chúng ghen ghét vì chị có mớ tóc vàng, hàm răng trắng.
Họ
nhận ra rằng, ở xưởng, đang làm với các chị em Phăngtin thường quay mặt
đi gạt thầm một giọt nước mắt. Những lúc ấy chị nhớ đến con và biết đâu
lại không nhớ cả đến tình xưa ng
ười cũ.

Thì ra cắt đứt với dĩ vãng đen tối là một việc vô cùng khó khăn và đau đớn.
Họ
nhận thấy rằng chị gửi thư ít nhất mỗi tháng hai lần, gửi mãi cho một
người và thư có dán tem. Họ lần mò tìm biết được địa chỉ: “Ông Tênácđiê,
chủ quán ở Môngphecmây”. Họ đưa người viết mướn đến quán rượu gợi
chuyện, lão già viết mướn ấy cứ “tửu nhập là ngôn xuất”. Do đấy họ biết
Phăngtin có con. “Cũng lại phường mèo mã gà đồng thôi”. Họ bảo với nhau
thế. Có một con mụ lắm chuyện thân hành đi đến tận Môngphecmây, thăm hỏi
vợ chồng Tênácđiê, rồi trở về khoe: “Tôi mất ba mươi lăm quan, nhưng từ
nay thì yên trí. Tôi đã trông thấy đứa bé!”

Con
mụ ấy là một con yêu quái. Tên nó là mụ Vituyếcniêng. Nó là người canh
cổng đức hạnh cho mọi người. Tuổi đã năm mươi sáu vừa già vừa xấu. Giọng
nói the thé, tính tình đồng bóng. Điều lạ là mụ cũng có thời son trẻ.
Hồi ấy, ngay năm 93, mụ lấy một thầy tu bỏ tu đi theo cách mạng. Người
mụ khô, cứng, gai góc, sắc nhọn, gần như độc ác, mặc dù mụ rất thương nh

ông chồng thầy tu đã để mụ góa bụa và đã nghe lời ông mà tu tỉnh sửa
chữa đi rất nhiều. Có thể nói mụ như cây gai tua tủa mà chiếc áo cứng
của ông thầy tu đã chà xát qua lại làm gãy bớt đi nhiều. Đến thời Quân
chủ phục hưng, mụ dốc tâm
đóng vai một mụ già ngoan đạo, quyết chí đến mức các cha cố cũng phải bỏ qua cho mụ.

Chính mụ Vituyếcniêng này đã đi Môngphecmây về và nói: “Tôi đã trông thấy đứa bé!”
Công
việc rõ là thóc mách ấy cũng phải mất nhiều thì giờ. Phăngtin vào xưởng
làm được một năm thì một buổi sáng, người nữ giám thị đưa cho chị năm
mươi phơrăng nói là của ông thị trưởng biếu chị. Người giám thị cho chị
biết là chị không được làm ở xưởng nữa và theo lời dặn của ông thị
trưởng khuyên chị nên đi xứ khác.

Lúc ấy cũng là lúc mà vợ chồng Tênácđiê trước đã tăng tiền tháng từ sáu lên mười hai phơrăng, nay lại đòi lên mười lăm phơrăng.
Phăngtin
nghe thấy thế cũng bằng sét đánh. Chị không thể bỏ đi đâu được vì còn
nợ tiền nhà, tiền bàn ghế. Năm mươi phơrăng không đủ để trả món nợ ấy.
Chị lúng búng nói mấy câu van nài. Người giám thị bắt chị phải ra ngay
khỏi xưởng. Vả lại Phăngtin cũng chỉ là một người thợ tầm thường thôi.
Xấu hổ còn nhiều hơn là thất vọng, chị từ giã xưởng làm việc, đi về nhà.
Vậy ra cái việc xấu của chị bây giờ ai cũng biết!

Chị
thấy không còn đủ sức nói một lời gì nữa. Có người khuyên chị tìm đến
ông thị trưởng mà van xin; chị không dám đi. Ông ta cho chị năm mươi
phơrăng vì ông là người tốt, còn ông ta đuổi chị ra khỏi xưởng vì ông là
người chính trực. Chị cúi đầu trước cái lệnh ấy.

IX

MỤ VITUYẾCNIÊNG THÀNH CÔNG


Cái mụ góa của ông thầy tu ấy mà được việc. Thật ra ông Mađơlen không biết gì về chuyện đó cả.
Những chuyện như thế thường thấy trong đời, do bao nhiêu sự việc chồng chéo nhau mà sinh ra.
Ông
Mađơlen vốn không mấy khi lui tới chỗ phân xưởng phụ nữ. Ông giao bộ
phận này cho một bà cao tuổi mà không chồng, do cha xứ giới thiệu. Ông
tin cậy người nữ giám thị ấy và bà này cũng là người đứng đắn, cương
quyết, công bằng, liêm chính, giàu lòng từ thiện. Nhưng lòng từ thiện
của bà ấy là thứ từ thiện chỉ biết bố thí mà không biết thông cảm cảnh
ngộ và dung thứ lỗi lầm. Ông Mađơlen giao cho bà ta định đoạt mọi việc.
Những người tốt nhất cũng nhiều khi bắt buộc phải ủy một phần quyền hành
của mình cho người khác. Cũng vì sẵn có quyền tối cao đó và tinh tưởng
là mình làm đúng, cho nên bà giám thị đã thẩm tra, xét xử, lên án và thi
hành bản án Phăngtin.

Còn như số tiền năm mươi phơrăng thì bà ta trích ở quỹ ông Mađơlen giao cho để giúp đỡ các chị công nhân, không phải báo cáo lại.
Phăngtin đi xin ở mướn. Chị đi hết nhà này qua nhà khác mà chẳng có ai chịu mướn. Chị không thể bỏ đi đâu được. Lão lái đã bán
chịu đồ đạc cho chị, - mà đồ đạc đâu có ra hồn đồ đạc – dọa chị là hễ
chị bước ra khỏi đất ấy, thì lão sẽ đi thưa chị là người ăn cắp. Lão chủ
nhà mà chị còn nợ tiền buồng bảo: “Chị vừa trẻ lại vừa đẹp làm gì mà
không trả được nợ?” Chị đem số năm mươi phơrăng chia ra trả cho hai bên
ấy và hoàn lại ba phần tư đồ đạc. Chị chỉ giữ vài thứ quá cần thiết.
Thất nghiệp, tay không, chị chỉ còn độc một chiếc giường và mang nợ
quãng một trăm phơrăng.

Chị
nhận khâu thuê sơ mi lính bằng vải thô kiến được mười hai xu một ngày.
Thế mà mỗi một khoản con chị cũng đã phải chi mất mười xu rồi. Đây là
thời kỳ gửi tiền trả cho nhà Tênácđiê thất thường.

May sao cái bà già thường ngày vẫn đốt đèn cho chị lúc chị về khuya, lại dạy cho chị cách sống trong nghèo khổ. Biến lối sống với rất ít tiền, còn lối sống không có một trinh, một chữ. Đó là hai cái buồng: một buồng mập mờ, một buồng tối om.
Mùa
đông Phăngtin tập bỏ hẳn lò sưởi. Phăngtin dứt được với con chim nuôi
chơi, nó ăn hai ngày một trinh hạt kê, chị học cách lấy váy làm chăn và
lấy chăn làm váy, cách ghé cửa sổ để ăn cơm dưới ánh đèn hàng xóm cho đỡ
tốn nến nhà mình. Có ai biết với một xu, những con người yếu hèn sống
già đời trong cảnh khốn cùng và lương thiện, đã tiêu dùng được những
việc gì. Phải biết là tài tình! Thật là tài tình. Phăngtin đã học được
cái tài đó, vì thế chị cũng bớt thất vọng phần nào.

Dạo
ấy, chị nói với một bà láng giềng: - “Chà! Tôi nghĩ rằng cứ ngày ngủ
năm giờ, còn thì ngồi mà khâu may, chẳng gì cũng kiếm được tạm đủ cơm
ăn. Vả lại, đã buồn cả ruột thì ăn cũng chẳng là bao. Ôi chao! Những sự
đau đớn và lo âu phiền muộn cộng với ít bánh mì, thế cũng đủ sống rồi”.

Trong
cảnh cùng quẫn ấy, nếu có con bé bên cạnh thì hạnh phúc biết bao nhiêu.
Chị nghĩ đến việc đưa con về. Nhưng về thế nào được! Về để cùng nhịn
đói nhịn khát ư? Vả lại, còn thiếu tiền của Tênácđiê thì sao? Lấy gì mà
trả? Còn tiền ăn đường đào đâu ra?


già dìu dắt Phăngtin trong cảnh nghèo nàn đó là một bà già nhân hậu, tên
là Macgơrít. Bà một lòng ngoan đạo, thờ Chúa, bà nghèo nhưng hảo tâm
với người khốn khổ và cả với người giàu sang. Bà chỉ biết viết một chữ
tên và tin Chúa, đó mới thực là tri thức chân chính.


rất nhiều những người đạo đức như thế ở các bậc thang thấp nhất trong xã
hội. Một ngày kia họ sẽ lên trên, lên trời. Đời sống như thế ắt phải có
hậu.

Những
ngày đầu mất việc, Phăngtin xấu hổ quá không dám đi đâu cả. Mỗi khi ra
phố, chị cảm thấy ai cũng trông theo chị mà chỉ trỏ. Ai cũng giương mắt
nhìn chị mà không thèm chào hỏi: sự khinh bỉ chua chát, lạnh lùng của kẻ
qua đường xoáy vào thịt da, tâm hồn chị, buốt như ngọn gió bấc.


tỉnh nhỏ, người đàn bà xấu số thấy như mình đứng trần truồng trước những
lời chế giễu và con mắt tò mò của mọi người. Ở Paris còn được một điều
là chẳng ai biết đến ai; sự vô danh che thân ta như là quần áo. Chao ôi!
Chị ao ước được về Paris biết bao! Nhưng không có cách.

Rồi
chị cũng phải quen với sự kinh bỉ cũng như đã quen với cảnh túng đói.
Lâu dần chị cũng dứt khoát. Hai ba tháng sau, chị rũ bỏ sự hổ thẹn, đi
lại ngoài phố như không có chuyện gì xảy ra. Chị thầm bảo: “Cóc cần!” Và
chị đi lại, đầu ngẩng cao, nụ cười ngao ngán. Chị cảm thấy mình đương
hóa ra trâng tráo.

Đôi
khi mụ Vituyếcniêng tựa cửa nhìn chị đi qua. Mụ nhận thấy cảnh cùng đồ
của chị. Mụ lấy làm khoái chí vì đã làm cho ngữ ấy không thể lộn sòng
được. Cái khoái chí của lũ độc ác sao mà đen tối thế!

Phăngtin lao lực quá nên suy yếu đi, bệnh ho khan càng tăng. Chị thường bảo bà Macgơrít:
- Bà thử sờ xem, tay tôi nóng chửa!
Tuy
thế, mỗi buổi sáng, khi chiếc lược sún chải vào mớ tóc vàng buông xõa
óng như tơ, thì trong giây phút chị lại cảm thấy vui vui, vì đẹp.


X

HẬU QUẢ CỦA THÀNH CÔNG




Phăngtin
bị đuổi ra khỏi xưởng vào một ngày cuối đông. Từ độ ấy, một mùa hè đã
qua, rồi mùa đông lại trở về. Ngày ngắn, chị làm việc được ít. Mùa đông
không có hơi ấm, không có ánh sáng, không có canh trưa, buổi chiều và
buổi sáng liền nhau, lúc nào cũng có sương mù, lúc nào cũng như hoàng
hôn, cửa kính mờ xám, không trông rõ ra ngoài nữa. Cả bầu trời như một
cái cửa thông hơi dưới hầm, cả ngày bưng bít như trong một cái hũ. Mặt
trời trông thiểu não như một người nghèo. Cái mùa ghê gớm! Nó biến nước
trời và lòng người thành đá. Bọn chủ nợ giày vò Phăngtin.


Tiền
chị kiếm ra quá ít ỏi. Nợ càng ngày càng nhiều. Thấy tiền gửi thất
thường, vợ chồng Tênácđiê luôn luôn viết thư thôi thúc. Lời thư làm cho
chị khổ tâm, bưu phí làm cho chị cạn túi. Một lần, chúng viết thư nói
rằng trời rét thế mà con Côdét của chị trần truồng rách rưới; cần sắm
cho nó một cái váy len, vậy phải gửi ngay cho chúng mười phơrăng.
Phăngtin nhận thư, cả ngày cầm trong tay đến nhàu nát. Buổi chiều chị
đến một hiệu cắt tóc ở phố. Chị bỏ lược, mớ tóc vàng óng ả đổ xuống đến
ngang lưng. Người thợ cạo trầm trồ:


- Ôi! Tóc đẹp quá!

Phăngtin hỏi:

- Ông trả tôi bao nhiêu?

- Mười phơrăng.

- Ông cắt đi.

Chị
mua một cái váy len gửi cho vợ chồng Tênácđiê. Nhận được váy, vợ chồng
chúng tức điên ruột. Chúng muốn Phăngtin đưa tiền kia. Chúng đem váy mặc
cho Epônin, con Sơn ca đáng thương thì vẫn rét run cầm cập.


Phăngtin
nghĩ: “Con ta không rét nữa. Ta đã lấy tóc ta dệt cho con mặc rồi”. Chị
đội mũ chụp nhỏ để giấu cái đầu trụi tóc, tuy thế vẫn còn xinh.


Lòng
người đàn bà ấy đang chịu những giày vò đen tối. Khi chị thấy không
chải chuốt được nữa, chị đâm thù ghét tất cả. Cả đến ông Mađơlen mà chị
cũng như tất cả mọi người, vẫn kính phục xưa kia, chị cũng phát ghét,
ghét cay đắng, ghét hơn ai hết, vì chị đã lặp đi lặp lại quá nhiều lần
rằng ông đã đuổi chị, làm cho chị khốn khổ đến thế. Những khi đi qua
xưởng cũ có thợ thuyền đứng trông, chị vờ cười và hát to lên.


Một bà thợ già một hôm trông thấy chị cười và hát như thế, bảo: “Cái chị này rồi cũng chả ra gì”.

Phăngtin
lòng đầy uất hận, bắt nhân tình bừa với một người, chẳng cân nhắc gì,
người đầu tiên mà chị gặp, một người mà chị không yêu, như muốn trêu tức
mọi người vậy: người ấy là một thằng khốn nạn, một tên gảy đàn hành
khất, một đứa vô nghề nghiệp nghèo khốn. Hắn đánh đập chị rồi chán chị,
bỏ chị dễ dàng cũng như khi chị bắt nhân tình với hắn. Phăngtin vẫn yêu
quí đứa con hết sức. C
h
càng sa đọa, cuộc đời chị càng đen tối, thì hình ảnh đứa con thơ ngây
yêu dấu lại càng sáng chói trong tâm hồn chị. Chị tự bảo: “Bao giờ ta
giàu, thì ta sẽ đón Côdét của ta về với ta”, và chị cười sung sướng.
Chứng ho cũ của chị vẫ không khỏi, lưng lại thường toát mồ hôi lạnh.


Một
hôm, chị nhận được một bức thư của vợ chồng Tênácđiê như sau: “Côdét
mắc một chứng bệnh đang phát triển ở địa phương, người ta gọi là bệnh
sốt ban. Cần nhiều thứ thuốc đắt tiền để chữa, chúng tôi chạy chữa đến
sạt nghiệp, bây giờ thì chúng tôi không còn tiền nữa. Trong vòng tám
ngày, nếu chị không gửi cho bốn mươi phơrăng thì coi như con bé đi đứt”.
Phăngtin cười rộ lên như điên và nói với bà láng giềng:


-
A, họ quí hóa thật! Bốn mươi phơrăng, có thế thôi! Nghĩa là hai đồng
vàng! Đào đâu ra? Họ thật ngớ ngẩn, những người nhà quê ấy họ ngớ ngẩn
thật!


Nhưng
rồi chị lại đi ra phía cầu thang, ghé cửa sổ đọc lại bức thư. Và chị
xuống thang gác, chạy ra phố, vừa chạy vừa nhảy vừa cười khanh khách.


Có người gặp chị hỏi:

- Có gì mà chị vui sướng thế hở?

Chị trả lời:

- Ở nhà quê họ vừa viết thư cho tôi. Thật là ngu ngốc. Họ đòi tôi gửi bốn mươi phơrăng. Nhà quê thật!

Khi
đi qua quãng trường, chị thấy có đám đông xúm quanh một chiếc xe kiểu
rất lạ. Trên sàn xe có một người đàn ông mặc áo đỏ đang nói huyên
thuyên. Đó là một anh chàng nhổ răng dạo, đang giới thiệu với mọi người
những hàm răng giả trọn vẹn, những ống thuốc đánh răng, những “nha thống
thủy”, “nha thống tán”.


Phăngtin
len vào đám đông và cũng cười như mọi người. Bài diễn thuyết của tên
nhổ răng dạo đầy những tiếng lóng dành cho bọn vô lại và những chữ khó
hiểu để cho khách tử tế. Thấy Phăngtin cười, hắn bỗng kêu lên:


-
Cái chị đang cười kia, răng chị đẹp quá! Nếu chị bán cho tôi hai cái bàn
cuốc của chị thì tôi trả cho chị mỗi cái một đồng vàng.


Phăngtin hỏi:

- Hai cái bàn cuốc của tôi là cái gì?

- Hai cái bàn cuốc là hai cái răng cửa hàm trên ấy – anh nhổ răng nói.

Phăngtin kêu:

- Nói gì mà nghe ghê rợn thế!

Một mụ già móm đứng cạnh nói lẩm bẩm:

- Hai đồng vàng cơ à! Thật là sướng nhé!

Phăngtin bịt tai chạy trốn để khỏi nghe giọng nói khàn khàn của anh chàng ấy đuổi theo:

- Nghĩ kỹ đi chị ơi! Hai đồng vàng được khối việc đấy. Nếu vừa ý, tối nay đến tìm tôi ở quán Tilắc nhớ.

Phăngtin về đến nhà, còn lẩm bẩm tức giận. Chị kể chuyện lại cho bà Macgơrít:

-
Bà thử nghĩ xem có nghe được không? Sao lại có thằng cha đáng ghét thế!
Sao người ta lại để cho những đứa như vậy đi dạo khắp nơi? Bẻ hai cái
răng cửa của tôi à? Thế rồi mặt mũi của tôi sẽ ghê gớm như thế nào? Tóc
còn mọc lại chứ răng thì bao giờ! Gớm cái đồ yêu quái! Thà tôi đâm đầu
từ tầng gác thứ năm xuống vỉa hè còn hơn. Hắn bảo tôi là tối nay hắn ở
quán Tilắc.


Bà Macgơrít hỏi:

- Thế hắn trả bao nhiêu?

- Hai đồng vàng.

- Thế là bốn mươi phơrăng.

- Vâng, thế là bốn mươi phơrăng – Phăngtin nhắc lại.

Chị
yên lặng, trầm ngâm rồi giở việc ra làm. Mười lăm phút sau, chị bỏ đồ
khâu đấy và chạy ra cầu thang đọc lại cái thư Tênácđiê. Khi trở vào, chị
hỏi bà Macgơrít ngồi khâu bên cạnh:


- Bà nhỉ, sốt phát ban là gì nhỉ, bà có biết không?

- Có, đó là một thứ bệnh.

- Chữa bệnh này cần nhiều thuốc lắm phải không?

- Ồ, những thứ thuốc ghê gớm lắm!

- Bệnh ấy đau ở đâu nhỉ?

- Nó đau như thế đấy.

- Trẻ con hay mắc, phải không?

- Nhất là trẻ con, dễ mắc lắm.

- Có chết được không hở bà.

- Chết lắm chứ lị.

Phăngtin lại đi ra để đọc bức thư một lần nữa ở cầu thang.

Đến tối, nàng ra phố và người ta thấy nàng đi về phía phố Paris là phố các quán cơm.

Hôm
sau, trời chưa sáng, khi bà Macgơrít sang phòng Phăngtin để cũng ngồi
khâu chung một ngọn nến thì bà ta thấy Phăngtin ngồi trên giường, mặt
tái nhợt, lạnh lẽo, ghê rợn. Nàng không ngủ. Chiếc mũ chụp rơi xuống đầu
gối, ngọn nến cháy cả đêm sắp tàn.


Trước cảnh tượng bất thường ấy, bà Macgơrít kinh ngạc đứng sững ở ngưỡng cửa như một pho tượng gỗ. Bà kêu:

- Lạy Chúa! Cây nến cháy hết cả như thế kia! Có tai biến gì xảy ra, hở chị Phăngtin?

Rồi bà nhìn Phăngtin đang quay cái đầu trọc lốc về phía bà.

Mới một hôm mà Phăngtin đã già đi đến mười tuổi.

- Lạy Chúa! Chị Phăngtin, chị làm sao vậy?

- Có gì đâu. Tôi vui thì có. Con tôi sẽ không chết về cái bệnh ác nghiệt ấy vì có thuốc rồi. Tôi rất hài lòng.

Phăngtin nói thế và chỉ cho bà Macgơrít hai đồng tiền vàng chói ngời trên mặt bàn.

- Ôi Chúa ơi! Cả một cái gia sản như thế! Chị làm gì mà có được những đồng tiền vàng ấy?

- Có đấy ạ?

Phăngtin
trả lời thế thôi và cười. Ngọn nến chiếu rõ mặt chị. Nụ cười rớm máu.
Một ít nước dãi đỏ dính ở hai mép và ở miệng chị có một lỗ hổng đen! Hai
cái răng đã bẻ đi rồi.


Phăngtin gửi bốn mươi phơrăng ấy cho Tênácđiê. Thật ra thì vợ chồng Tênácđiê đã đánh lừa nàng để lấy tiền, Côdét không ốm.

Phăngtin
ném gương qua cửa sổ. Từ lâu nàng không ở cái phòng ở tầng hai nữa mà
lên ở trên gác xép sát mái nhà, chỉ cài bằng một cái then con, một cái
xó mà gác mái chếch lên mặt sàn, ra vào đụng đầu. Kẻ nghèo khổ chui vào
buồng mình ở cũng như đi sâu vào số mệnh, càng vào càng phải cúi rạp
lưng xuống. Phăngtin không có giường nữa, nàng chỉ có một mảnh giẻ rách
gọi là chăn, một cái đệm vứt xuống sàn và một chiếc ghế nát. Cây hồng
con nàng vẫn trông đã chết khô trong một góc buồng. Trong góc khác có
một cái cóng đựng bơ hay dùng đựng nước: mùa rét nước đông lại, mỗi lần
như thế, mặt nước để lại một vành băng trong lòng cóng. Phăngtin đã
không cần biết xấu hổ là gì, đến nay nàng cũng không thiết làm dáng nữa.
Đến thế là hết. Nàng đội những cái mũ chụp bẩn đi ra phố. Vị bận hay vì
chán chường, nàng để mặc cho quần áo rách nát, không vá víu nữa. Khi
gót bít tất thủng, nàng gấp vào trong giày làm cho bít tất có những nếp
dăn dọc. Nàng đụp cái coóc xê cũ nát bằng những mụn vải bở, hễ cựa một
cái là toạc ra. Chủ nợ luôn mè nheo, không để cho nàng yên lúc nào. Ở
ngoài đường cũng thấy họ, về nhà cứ đến cầu thang lại đã thấy họ. Đêm
nào nàng cũng nghĩ ngợi và khóc lóc. Mắt nàng sáng quắc lên; nàng luôn
luôn đau nhói ở phía trên bả vai bên trái. Nàng ho nhiều. Nàng thù ông
Mađơlen lắm, nhưng nàng không than thở. Nàng khâu mười bảy giờ một ngày.
Nhưng một tên chủ thầu nhà pha lãnh thuê tù phụ nữ khâu giá rẻ, nên
công khâu thuê ở ngoài cũng bị hạ xuống, chỉ được chín xu một ngày. Làm
việc mười bảy giờ mà chỉ được chín xu! Bọn chủ nợ lại càng nghiệt ngã
hơn bao giờ hết. Người bán đồ cũ của nàng đã bắt lại gần hết đồ đạc, thế
mà lúc nào hắn cũng hỏi nàng: “Cái quân này lúc nào mày trả nợ tao?”
Người ta còn muốn gì nữa, hở trời! Nàng thấy mình như một con vật bị
người ta săn bắt và đương hóa nên hung tợn vì bị đuổi cùng đường. Cũng
lúc ấy, nhà Tênácđiê viết thư bảo nàng là chúng đã kiên nhẫn lắm rồi, đã
tốt hết sức rồi, phải gửi ngay cho chúng một trăm phơrăng. Gửi ngay,
nếu không chúng sẽ tống cổ Côdét ra cửa mặc cho rét mướt, mặc cho lang
thang, mặc cho vừa thoát khỏi cái bệnh ghê gớm, mặc cho đứa bé muốn ra
sao thì ra, có phải chết đường chết chợ cũng đành.


Phăngtin tự bảo: “Một trăm phơrăng! Tìm đâu ra một việc làm công nhật năm phơrăng? – Thôi! Đành bán nốt vậy.”

Thế là người đàn bà xấu số ấy đi làm gái điếm.






Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:36 pm

XI

CHÚA GIẢI THOÁT CHÚNG TA

(Nguyên văn La tinh: Chritus nos liboravit)



Chuyện của Phăngtin là chuyện gì vậy? Chuyện xã hội mua một người nô lệ.
Mua của ai? Của cùng khổ.
Của
đói khát, của rét mướt, của cô đơn, của hắt hủi, của trơ trụi. Cảnh mua
bán quá thương tâm: một mẩu bánh đánh đổi một linh hồn. C
ùng
khổ đem bán, xã hội nhận mua. Luật Chúa thiêng liêng điều khiển văn
minh thế giới, nhưng luật Chúa chưa đi sâu vào văn minh. Người bảo việc
mãi nô không còn ở châu Âu. Nói thế là lầm. Nó vẫn tồn tại, nhưng nó chỉ
làm khổ người phụ nữ. Đó là chế độ mãi dâm.


đè nặng lên người phụ nữ tức là đè nặng lên duyên dáng, yếu hèn, sắc
đẹp, tình mẹ. Đó là một điều nhục nhã lớn cho bọn đàn ông.

Đến
bước đường bi đát ấy, Phăngtin chẳng còn gì là cô Phăngtin ngày xưa
nữa. Trở thành bùn dơ, nàng cũng hóa ra đá lạnh. Ai chạm phải nàng cũng
cảm thấy buốt tay. Nàng là kẻ qua đường, chịu đựng anh và không biết anh
là ai. Nàng ô uế, nhưng mà nghiêm nghị. Nàng đã đoạn tuyệt với cuộc
đời, với xã hội. Cái gì có thể xảy đến cũng đã xảy đến với nàng rồi.
Nàng đã nhận tất chịu tất, thử thách tất, đau khổ tất, mất tất, khóc
thương tất. Bây giờ thì nàng cam chịu với dáng lạnh lùng, cũng như cái
chết có dáng một giấc ngủ. Nàng không lẩn tránh cái gì nữa cả. Nàng
không kiêng sợ cái gì nữa cả. Mưa rào cứ tuôn xuống người nàng đi, biển
cả cứ giội lên người nàng! Sá gì! Nàng đã là một tấm giẻ đẫm nước.

Ấy
là nàng tưởng thế. Nhưng thật là sai lầm khi tưởng tượng rằng mình dốc
cạn hết đắng cay của vận mệnh và đạt tới được chỗ tận cũng của bất kỳ
một cảnh huống nào.

Hỡi ơi! Những vận mệnh bị xô dồn như thế là thế nào nhỉ? Họ bị đầy đi đâu? Vì sao lại thế?
Ai biết điều ấy tức là rõ cái tối tăm huyền bí.
Chỉ có một kẻ biết. Đó là Chúa.

XII


GÃ BAMATABOA VÔ CÔNG RỒI NGHỀ




tỉnh nhỏ, nhất là ở Môngtơrơi, có một hạng thanh niên mỗi năm gặm nhấm
một ngàn rưỡi phơrăng lợi tức cùng một kiểu cách như các cậu công tử ở
Paris tiêu hai mươi vạn phơrăng. Đó là một hạng người vô nghĩa: không
sinh lực, ăn bám, vô dụng, có chút ít ruộng đất và nhiều cái dại dột
cộng với một ít thông minh. Vào các phòng khách lịch sự thì họ là người
cục súc, mà ở quán rượu thì họ tự cho là quí tộc. Mở miệng thì nào là
“đồng cỏ của tôi” nào là “rừng của tôi, điền tốt nhà tôi”. Họ huýt c
òi
các cô đào trong rạp để lên mặt ta là người thông thạo, họ gây gổ với
sĩ quan để tỏ rằng mình cũng là khách kiếm mã. Họ cũng đi săn, hút thuốc
lá, n
gáp
vặt, uống rượu, đánh bi a, đứng xem người ta lên xuống xe, la cà chốn
cao lâu tửu điếm. Họ có một con chó để gặm xương dưới bàn và một cô nhân
tình để dọn cơm lên bàn cũng ăn. Họ tính toán chi li từng xu, họ học
đòi theo thời trang không phải lối, họ có những kiểu cách thị thành rởm.
Cứ thế họ sống già đời ngu độn, không lao động, chẳng ích gì cho đời mà
cũng chẳng hại bao nhiêu.

Phêrit Tôlômiet mà chỉ ở tỉnh nhà, chẳng biết Paris là gì cả, thì sẽ có một kiểu người như thế.
Nếu
họ giàu có hơn nữa thì người ta cho họ là kẻ sang trọng, mà nghèo kiết
hơn nữa thì là đứa ăn hại. Thật ra họ chỉ là một bọn vô công rồi nghề
. Trong đám, có kẻ bặng nhặng, có kẻ chán chường có kẻ vẩn vở và có kẻ lố bịch.

Thời
ấy, bộ cánh của một gã sang trọng là một cái cổ áo, một cái cà vạt to,
một chiếc đồng hồ có dây lủng lẳng đồ chơi, ba cái gi lê mặc chồng lên
nhau, mỗi cái một màu, cái xanh trong cùng rồi đến cái đỏ, một cái áo
màu ô liu thân ngắn, đuôi xòe, đính hai hàng cúc bạc dày sít nhau, chạy
lên tận vai, một cái quần cũng màu ô liu nhưng nhạt hơn, đường may ở hai
ống thêm những ngấn thêu cho đẹp, từ một đến mười một nhấn một bên, chứ
không bao giờ quá và luôn luôn là số lẻ. Thêm vào đó còn có đôi giày
cao cổ gắn cá sắt ở gót, cái mũ cao, hẹp vành, mớ tóc bờm xơm, cây ba
toong to tướng và những câu bông lơn, bông phèng luôn luôn trên cửa
miệng. Đặc biệt hơn cả là bộ cựa giày và bộ râu trên mép. Bấy giờ râu
mép là dấu hiệu tư sản thị dân, còn cựa sắt có nghĩa là người đi bộ (
Cựa sắt tra vào gót giày những người cưỡi ngựa, để thúc ngựa).

Gã sang trọng tỉnh lẻ dùng cựa càng dài và tỉa bộ ria càng dữ.
Bấy giờ các nước cộng hòa Nam Mỹ đang chống lại ách thống trị của vua Tây
Ban Nha. Bôiliva đang lãnh đạo quân cách mạng chống lại Môridô, tướng
của nhà vua. Nhân đó, mũ hẹp vành là bảo hoàng và có tên là Môridô, còn
những người phái tự do thì đội mũ rộng vành gọi là Bôiliva.

Khoảng
đầu giêng năm 1823, nghĩa là tám chín tháng sau những việc vừa kể, vào
buổi tối một ngày mưa tuyết, một chàng công tử, một gã vô công rồi nghề
kiểu trên, ăn mặc đúng thời trang, lại choàng một áo khoác thật ấm, đang
tiêu khiển bằng cách trêu nghịch một gái điếm. Ả này đang lảng vảng
trước tiệm cà phê sĩ quan. Ả bận áo mỏng để hở ngực và vai, trên đầu
giắt hoa. Tay công tử hút thuốc lá, cái mốt bấy giờ là thế.

Mỗi
lần người gái điếm lượn qua thì hắn lại phà khói xì gà vào mặt ả và
văng ra những lời trêu chọc mà hắn cho là hóm hỉnh: “Sao mày xấu như ma
lem thế! – Hãy che mặt đi, con kia! – Mày là con móm!”… Tay công tử ấy
tên là Bamataboa. Người đàn bà trông như con ma dại trát phấn đi đi lại
lại trên tuyết, không trả lời, không thèm nhìn hắn. Ả cứ yên lặng đi,
lại, cách năm phút lại đến hứng những lời chế giễu một lần, y như một
tên lính bị phạt đòn qua lại dưới trận mưa roi. Thấy châm chọc không kết
quả, anh chàng đâm tức, bèn rình lúc chị kia quay lưng lại, khẽ rón rén
đi theo, nhịn cười cúi xuống bốc một nắm tuyết bỏ tọt vào lưng áo hở
vai của chị ta; chị rú lên một tiếng, nhảy chồm lên như một con báo,
xông vào cào cấu nát mặt thằng nghịch ác, miệng chửi rủa những lời ghê
gớm nhất. Tiếng chửi rủa khàn khàn vì rượu văng ra từ một cái mồm đen
ngòm thiếu cái răng, trông đến gớm. Người đàn bà ấy là Phăngtin.

Nghe
náo động, bọn sĩ quan trong tiệm kéo cả ra ngoài, người đi đường cũng
đứng lại, tụ tập thành đám đông vây quanh lấy đám đánh nhau mà cười, mà
la ó, mà vỗ tay. Trong đám đánh nhau túi bụi như một cơn lốc, nhìn kỹ
mới thấy một anh đàn ông đương chơi vơi, mũ lăn dưới đất, một chị đàn bà
vừa đấm, vừa đá, vừa rú thét, đầu trần, không răng, không tóc, mặt tái
nhợt vì giận, nom thật ghê gớm.

Bỗng một người cao lớn từ đám đông tiến thẳng ra, tóm ngực áo xa tanh đầy bùn của người đàn bà, ra lệnh:
- Đi theo ta!
Người đàn bà ngẩng lên. Tiếng thét bỗng nhiên nghẽn trong cổ. Hai con mắt chị đờ ra. Mặt chị đang tái nhợt bỗng hóa ra tái xanh và chị run lên vì kinh sợ. Chị đã nhận ra người ấy là Giave.
Cậu công tử nhân lúc lộn xộn chuồn mất.

XIII



GIẢI QUYẾT MẤY VẤN ĐỀ



CẢNH SÁT THÀNH PHỐ




Giave
rẽ đám đông, rảo cẳng đi về phía sở cảnh sát ở đầu phố, kéo người đàn
bà khốn nạn lếch thếch theo sau. Chị ta để mặc cho hắn lôi đi như người
mất hồn. Cả hai không ai nói một người. Bọn người đi xem, thích thú cực
độ, kéo theo sau, vừa đi vừa pha trò. Cảnh khổ não cùng cực vẫn là cơ
hội cho những lời bông đùa tục tĩu.


Buồng
giấy sở cảnh sát là một gian nhà thấp có lò sưởi, có bót lính bảo vệ,
cửa trông ra đường kính có song sắt. Giave mở cửa đưa Phăngtin vào trong
nhà rồi đóng cửa lại, làm cho bọn tò mò thất vọng. Họ kiễng chân nghển
cổ nhìn qua tấm kính mờ chỗ bót gác, để xem cho được. Anh tò mò giống
như anh tham ăn. Được xem cũng như được nuốt.


Phăngtin vào đến buồng giấy, ngồi phệt xuống một xó không dám rỉ răng, không cựa quậy, thu bốn vó y như con chó sợ đòn.

Viên đội coi ở đây mang lại một cây nến đặt lên bàn.

Giave ngồi xuống, rút trong túi ra một tờ tín chỉ rồi bắt đầu viết.

Pháp
luật chúng ta đã giao những phụ nữ này cho cảnh sát được toàn quyền xử
lý. Nó muốn làm thế nào thì làm, muốn phạt thế nào cũng được. Nó tự ý
tước đi hai thứ đáng buồn mà họ gọi là nghề nghiệp và tự do của họ.
Giave lạnh như tiền. Bộ mặt đĩnh đạc của hắn không biểu lộ chút tình cảm
nào hết. Song hắn suy nghĩ chăm chú và nghiêm túc lắm. Đó là lúc hắn
thi hành cái quyền lực đặc mệnh đáng sợ của hắn, với mọi sự thận trọng
của một lương tâm nghiêm khắc, tuy không có ai kiểm soát. Lúc ấy hắn cảm
thấy chiếc ghế đẩu cảnh sát viên của hắn là một công đường. Hắn đang
ngồi xử án. Hắn luận án và hắn kết tội. Hắn vận dụng tất cả những kiến
thức của hắn để làm cho tròn cái việc nghiêm trọng ấy. Càng xét việc đứa
gái đĩ ấy, hắn càng thấy phẫn nộ. Không nghi ngờ gì hết, hắn vừa chứng
kiến một tội ác. Thật thế, trước mặt hắn, ngay ngoài phố, một ả vô lại
đã lăng mạ xã hội, đã xúc phạm xã hội trong con người một vị nghiệp chủ -
cử tri. Một ả gái điếm dám xúc phạm một nhà tư sản. Cảnh ấy, chính mắt
hắn, chính Giave, đã nhìn thấy. Hắn yên lặng cắm cúi viết.


Viết xong, hắn ký tên, gấp tờ giấy lại đưa cho viên đội gác mà bảo:

- Lấy ba người giải con này vào nhà giam.

Rồi quay sang phía Phăngtin:

- Mày đi tù sáu tháng.

Phăngtin rụng rời, kêu:

-
Sáu tháng! Sáu tháng ở tù! Sáu tháng mỗi ngày chỉ được bảy xu! Thế thì
Côdét rồi ra làm sao? Con ơi! Con! Ông thanh tra ơi, tôi còn nợ nhà
Tênácđiê những một trăm phơrăng nữa, ông có biết cho không?


Chị ta lết dưới sàn gạch lấm bùn giầy bọn lính, chị chắp tay, cứ quì lê đầu gối đi và kêu van:

- Ông Giave ơi, ông sinh phúc cho. Tôi cam đoan với ông rằng không phải lỗi ở tôi. Nếu ông được chứng kiến ngay từ lúc đầu thì ông đã rõ! Tôi xin thề trước mặt Chúa là không
phải lỗi ở tôi. Chính cái nhà ông tư sản ấy, nào tôi có quen biết gì
đâu, ông ấy bốc tuyết bỏ vào lưng tôi. Khi lũ tôi đi đường không động
chạm gì đến ai, thì người ta có quyền gì lấy tuyết nhét vào lưng chúng
tôi như thế? Tôi bị cóng lạnh. Tôi lại đang ốm dở, ông xem đấy! Với lại
trước đó ông ấy cứ nhạo báng tôi mãi. Nào là: mày xấu lắm! Nào là: mày
không có răng! Tôi cũng biết là tôi không có răng thật. Tôi có làm gì
đâu. Tôi tự nhủ: vị này bông đùa thôi. Tôi có giở ngón gì với ông ấy
đâu. Tôi không nói không rằng. Giữa lúc ấy thì ông ta nhét tuyết vào
người tôi. Thưa ông Giave, thưa ông thanh tra phúc đức! Quanh đây lại
không có ai làm chứng cho tôi là đã trông thấy đúng như thế ư? Có lẽ tôi
cũng có trái vì đã nóng giận. Nhưng ông minh xét cho, trong lúc bất
thần như thế, ai mà bình tĩnh được. Ai mà không phát bẳn lên. Vả lại bất
thình lình không ngờ có người bỏ một vật lạnh như thế vào trong lưng
thì ai mà nín được! Tôi cũng biết làm bẹp cái mũ dạ của ông ấy là trái
rồi. Làm sao ông ấy lại bỏ đi ngay không để cho tôi xin lỗi! Trời ơi!
Xin lỗi ông ấy thì xin chứ sao. Ông Giave ơi, xin ông tha cho tôi lần
này, lần hôm nay thôi. Ông ơi, ông không biết cho rằng ở trong tù mỗi
ngày chỉ kiếm được có bảy xu – cái đó hẳn là không phải lỗi ở nhà nước –
nhưng chỉ kiếm được có bảy xu mà ông tưởng tượng xem, tôi phải trả nợ
những một trăm phơrăng, không có thì họ tống cổ con tôi đi. Ôi trời ơi!
Tôi không thể để con tôi ở với tôi được. Cái nghề tôi làm xấu xa lắm!
Ôi, Côdét con ơi, con yêu quý của mẹ, rồi con sẽ ra sao, hỡi con chó tội
nghiệp của mẹ? Thưa ông, tôi nói bọn nhà Tênácđiê, bọn bán quán, bọn
nhà quê, chẳng có nhân nghĩa gì. Chúng nó chỉ biết tiền với tiền. Đừng
bỏ tù tôi, ông ơi! Ông biết cho, nếu tôi ở tù thì con bé sẽ bị đuổi ngay
ra đường muốn ra sao thì ra, giữa mùa đông tháng giá thế này. Ông
thương cháu bé bỏng với, ông Giave phúc đức ơi. Nếu nó nhớn nhau một tí,
thì kệ nó tự đi mà kiếm ăn lấy, nhưng nó còn bé dại lắm, chưa biết gì
đâu. Tôi vốn không phải là con người hư thân mất nết. Không phải tại tôi
siêng ăn nhác làm gì. Sở dĩ tôi phải uống rượu là vì khốn khổ quá. Tôi
có ưa rượu đâu, song uống vào cho nó quên lãng đi. Khi tôi còn được sung
sướng, ai mở tủ tôi mà xem thì biết rằng tôi không phải là kẻ đỏm dáng
bơ thờ gì đâu. Tôi trước có quần áo, nhiều lắm. Ông Giave ơi! Ông rủ
lòng thương tôi với, ông!


Người
gập lại làm đôi. Phăngtin vừa nói, vừa khóc nức nở, nước mắt ràn rụa,
áo xoạc đến ngực, hai tay vặn vào nhau, thỉnh thoảng ho khan từng cơn
ngắn; chị nói lắp bắp hổn hển, giọng yếu đuối như người hấp hối. Sự đau
khổ cùng cực có khi như một ánh sáng thần diệu và ghê gớm làm đổi nét
mặt con người. Phăngtin lúc ấy trở lại đẹp đẽ. Nhiều khi chị dừng nói,
ôm lấy gấu áo của Giave mà hôn một cách thiết tha.


Trước cảnh tượng ấy, dầu sắt đá cũng phải chuyển, nhưng quả tim gỗ của tên mật thám không lay chuyển tí nào.

-
Thôi, ta đã nghe rồi. Mày đã nói hết chưa? Bây giờ thì đi. Đi tù sáu
tháng. Dẫu Chúa cứu thế xuống đây cũng không làm thế nào được!


Phăngtin nghe đến cái câu tận từ: “Dẫu Chúa cứu thế cũng không làm thế nào được!” thì hiểu rằng hắn đã nhất quyết như thế rồi.

Chị ngã sụp xuống, miệng lắp bắp:

- Tha cho tôi!

Giave quay lưng đi.

Bọn lính túm tay chị.

Trước
đấy mấy phút có một người vào trong buồng giấy mà không ai để ý. Người
ấy đã khép cửa và tựa lưng vào cửa, đứng nghe những lời van xin tuyệt
vọng của Phăngtin. Đến khi bọn lính túm lấy chị đàn bà khốn nạn, chị ta
không chịu đứng dậy, thì người ấy bước ra khỏi chỗ tối, bảo:


- Khoan đã.

Giave nhìn lên và nhận ra ông Mađơlen. Hắn bỏ mũ chào, dáng lúng túng như có ý bực mình:

- Thưa ông thị trưởng, xin lỗi ngài…

Mấy
tiếng “Ông thị trưởng” làm cho Phăngtin như bị điện giật. Chị vươn đứng
lên đột ngột như ma từ dưới mồ, lấy tay gạt mấy người lính ra, tiến
thẳng đến trước mặt ông Mađơlen, những người chung quanh không giữ kịp.
Chị nhìn trừng trừng vào mặt ông, bộ dạng như con dại:


- A! Vậy ra mày là ông thị trưởng!

Chị cười lên khanh khách và nhổ một cái vào mặt ông.

Ông Mađơlen lau mặt, rồi nói:

- Ông thanh tra Giave, ông hãy thả người đàn bà này ra.

Giave
tưởng mình sắp hóa điên. Cùng một lúc liền, hắn có những cảm xúc mãnh
liệt và dồn dập chưa từng thấy. Mắt trông thấy một đứa gái điếm nhổ vào
mặt một ông thị trưởng, đó là một điều quái gở, chỉ nghĩ là việc ấy có
thể xảy ra thôi cũng đủ là bất kính rồi. Mặt khác, trí óc hắn lờ mờ liên
hệ hình ảnh thật của ả gái điếm với hình ảnh ước đoán về ông thị trưởng
kia, do đấy hắn kinh hoàng thấy rằng việc đại xúc phạm của Phăngtin vừa
rồi cũng không có gì là lạ. Nhưng đến khi hắn thấy ông thị trưởng ấy,
ông quan ấy, bình tĩnh chùi mặt và nói: Hãy thả người đàn bà này ra thì
hắn choáng váng kinh khủng. Hắn đứng ngây ra không biết nói gì, không
biết nghĩ thế nào. Chưa bao giờ kinh ngạc đến như thế, hắn nghẹn mồm như
bị câm.


Lời
ông Mađơlen làm cho Phăngtin ngạc nhiên không kém. Chị giơ cánh tay
trần nắm lấy quả nắm cửa lò sưởi, như người sắp ngã. Và chị ngơ ngác
nhìn quanh, miệng lẩm bẩm như nói một mình:


- Thả ra! Thả tôi ra à! Để cho tôi khỏi phải đi tù sáu tháng! Ai
nói như vậy đó? Có thật có người nói như thế không? Tôi nghe lầm chăng?
Chắc chẳng phải cái thằng thị trưởng trời đánh kia! Ông Giave nhân đức
ơi,
có phải ông bảo thả tôi ra không? Trời ơi! Ông ơi! Tôi xin nói ông rõ
rồi ông để tôi đi nhé! Cái thằng thị trưởng trời đánh này, cái thằng chó
đểu già thị trưởng này, chính nó đã làm tôi trăm phần điêu đứng. Thưa
ông Giave, ông nghĩ mà xem! Hắn đã đuổi tôi! Chỉ vì một lũ đàn bà mạt
kiếp đã xầm xì trong xưởng. Thế có phải là kinh tởm không? Ai lại đi
đuổi một đứa con gái nghèo khổ cần cù làm ăn! Bị đuổi tôi không kiếm đủ
tiền nuôi con, cho nên mọi sự bất hạnh xảy đến. Tiện đây có một điều mà
các ông sở cảnh sát nên để ý cải thiện, là đừng để bọn thầu khoán trong
nhà tù làm hại bọn người nghèo. Ông ơi, tôi trình bày để ông rõ, công
may sơ mi đang là mười hai xu thì hạ xuống còn chín xu. Thành ra không
thể sống được và phải mặc cho đời ra sao thì ra. Tôi còn con Côdét, túng
thì phải tính nên hóa ra người hư. Bây giờ thì ông đã hiểu bao nhiêu
tai ách của tôi đều do cái thằng thị trưởng ăn mày này đây ra cả. Tôi có
xéo bẹp cái mũ dạ của ông tư sản trước tiệm cà phê sĩ quan. Nhưng ông
ta đã ném tuyết làm hỏng cái áo dài của tôi. Nghề chị em chúng tôi, cả
bộ cánh chỉ có chiếc áo lụa để diện buổi tối thôi, Ông xem, tôi có cố
làm hại ai bao giờ đâu, có phải không thưa ông Giave. Tôi thấy chán vạn
đứa hung ác hơn tôi, thế mà chúng nó được sung sướng hơn tôi nhiều. Ông
Giave ơi! Có phải ông bảo người ta thả tôi ra không? Đúng thế chứ? Xin
ông cứ cho điều tra, ông hỏi chủ nhà tôi mà xem, bây giờ tôi đã trả tiền
nhà sòng phẳng, ai cũng sẽ công nhận tôi là người thật thà. Ôi! Trời
ơi, xin ông tha lỗi, tôi vô ý cầm phải quả nắm cửa lò sưởi làm khói bay
ra ngoài.


Ông
Mađơlen chăm chú nghe nàng nói. Vừa nghe, ông vừa cho tay vào túi áo
ghi lê lấy ra một cái ví, nhưng mở ra lại là ví không, nên ông lại bỏ
vào túi. Ông hỏi Phăngtin:


- Chị nói chị còn nợ bao nhiêu nữa?

Đang hướng về phía Giave, Phăngtin quay lại:

- Tao nói với mày đấy à?

Rồi nàng nói với bọn lính:

-
Này các bác, các bác có trông thấy tôi nhổ vào mặt nó thế nào không? À!
Tên thị trưởng già khốn nạn kia, mày đến đây để dọa tao đó, có phải
không? Nhưng tao thì tao không sợ mày đâu. Tao chỉ sợ ông Giave thôi.
Tao kính sợ ông Giave phúc đức thôi.

Nói thế rồi chị quay về phía tên thanh tra mật thám:

-
Thưa ông, nói thế thì nói, cũng phải cho công bằng chứ! Ông thanh tra
ơi, tôi biết ông là người công minh. Đầu đuôi câu chuyện có gì đâu. Một
người đàn ông đùa, bốc một dúm tuyết nhét vào lưng người đàn bà, việc ấy
làm cho bọn sĩ quan cười. Đúng! Họ cũng phải đùa giỡn chứ. Mà đám chị
em chúng tôi cũng là để mua vui cho thiên hạ. Về phần ông thì ông cũng
phải giữ gìn trật tự chứ. Cho nên ông đến ông lôi con mẹ đàn bà có lỗi
đi. Nhưng ông vốn là người nhân từ, khi nghĩ lại, ông bảo thả tôi ra.
Thế là ông thương đến cháu bé lắm đấy, vì rằng sáu tháng ở tù thì ai
nuôi con cho tôi. Thế nhưng chớ có ai dại dột một lần nữa, con khốn! Lạy
ông, tôi không dám thế nữa, ông Giave! Từ giờ thì ai muốn làm gì tôi
thì làm, tôi không dám cựa quậy nữa. Nhưng ông ạ, hôm nay tôi trót làm
toáng lên vì tôi cóng quá. Tôi không dè có cái vốc tuyết của ông ấy ở
trong bụng. Tôi đã trình ông rõ là tôi đang ốm, tôi ho, trong dạ dày tôi
có cái cục gì nóng như lửa. Ông lang bảo tôi phải chữa ngay đi. Đây
này, ông sờ vào mà xem. Ông cứ đưa tay đây, đừng sợ, ở chỗ này này.

Phăngtin
không khóc nữa, giọng chị mơn trớn vuốt ve. Chị nắm bàn tay to kệch của
Giave áp vào chỗ ngực trắng mịn của chị, vừa nhìn hắn vừa cười.

Bỗng
chị nắn lại sống áo lôi thôi, kéo cái gấu váy đã hếch lên tận đầu gối
vì chị quì bò từ nãy. Rồi tiến ra phía cửa, chị gật đầu thân mật nói nhỏ
với bọn lính canh:

- Các chú quyền ạ, ông thanh tra bảo thả cho tôi, tôi đi đây.
Chị đặt tay lên then cửa, chỉ một bước nữa thôi là chị ở ngoài đường.
Cho
đến lúc ấy Giave vẫn đứng yên, mắt nhìn xuống đất. Hắn ngây ra như một
pho tượng đặt không phải chỗ, ở giữa quang cảnh đó. Nghe tiếng động cửa,
hắn vụt tỉnh lại, ngẩng đầu lên với vẻ quyền hành vô thượng. Uy quyền
càng ở người địa vị thấp càng đáng sợ. Uy quyền ở loài thú dữ và hung
tợn, uy quyền ở người hèn hạ thì không có gì khủng khiếp hơn.
Giave thét:

- Đội trưởng! Anh không trông thấy con ấy nó đi ra à! Ai bảo anh để nó đi?
- Tôi bảo – ông Mađơlen.
Phăngtin
nghe tiếng Giave thét thì rụng rời buông then cửa, như một tên kẻ cắp
bị bắt thả rơi vật đã lấy. Đến khi nghe tiếng ông Mađơlen thì chị quay
lại. Từ đấy chị đứng yên lặng, không dám thở mạnh, con mắt hết nhìn
Giave lại nhìn ông Mađơlen tùy theo người này hay người kia nói.


lẽ Giave đã bị “trật bản lề” nên mới thét mắng viên đội như thế, mặc dầu
đã có lời ông thị trưởng truyền thả cho Phăngtin. Có lẽ hắn quên rằng
có ông thị trưởng ở đây chăng? Có lẽ bụng bảo dạ rằng không có thể một
“nhà cầm quyền” lại ra một cái lệnh như thế, hắn nghĩ chắc ông thị
trưởng đã lầm lẫn, muốn thế này lại nói ra thế khác chăng? Hay là đã hơn
hai tiếng đồng hồ chứng kiến những sự việc ngược đời quá đỗi, hắn nghĩ
cần phạt quyết liệt, người thấp phải nắm lấy quyền cao, người mật thám
phải lên làm quan tòa, người cảnh binh phải quan án. Đến nước này thì
hắn phải đại diện cho luật pháp, đạo đức, an ninh, đại diện cho nhà
nước, đại diện cho tất cả xã hội nói chung.

Dẫu
sao, khi ông Mađơlen nói “tôi bảo” thì viên thanh tra mật thám Giave
quay lại phía ông thị trưởng. Mặt hắn tái ngắt, môi tím lại, toàn thân
rung khe khẽ, vẻ người nghiêm lạnh, con mắt thất vọng và giọng hắn, lạ
chửa, rắn rỏi tuy mắt hắn nhìn xuống:

- Thưa ông thị trưởng, không thể thế được.
- Sao vậy?
- Cái con khốn nạn này đã lăng mạ một người sang trọng.
Ông Mađơlen ôn tồn, đấu dịu:
-
Ông thanh tra Giave này! Ông là một người chính trực, cho nên tôi sẵn
lòng giải thích cử chỉ của tôi. Sự thật là thế này. Khi ông đưa người
đàn bà này đi thì tôi cũng vừa đến chỗ đó, hãy còn thấy đám đông đứng
bàn tán, Tôi có hỏi đầu đuôi và biết rằng chính anh tư sản có lỗi, lấy
lẽ công bình mà nói thì phải bắt anh ta mới đúng.

Giave gượng gạo:
- Con khốn kiếp lại vừa xúc phạm đến ông thị trưởng.
- Đó là chuyện riêng của tôi. Riêng tôi bị nhục, chắc vậy. Thế thì xử trí thế nào cũng tùy tôi thôi.
- Tôi xin ngài thị trưởng tha lỗi cho tôi. Điều nhục ấy không phải thuộc riêng ngài mà là thuộc luật pháp.
- Ông thanh tra Giave, luật pháp cao nhất là lương tâm con người. Tôi đã nghe người đàn bà này nói. Tôi hiểu những việc tôi làm.
- Thưa ông thị trưởng, tôi thì tôi chẳng hiểu gì những việc tôi trông thấy.
- Thế thì ông hãy cứ chấp hành mệnh lệnh.
- Tôi chấp hành nhiệm vụ. Nhiệm vụ của tôi buộc phải giam tù con này sáu tháng.
Ông Mađơlen ngọt ngào:
- Ông nghe đây. Người này sẽ không phải tù một ngày nào.
Thấy lời nói kiên quyết, Giave dám nhìn ngay vào mặt ông thị trưởng, nhưng vẫn giữ giọng hết sức tôn kính mà nói:
-
Tôi thật lấy làm khổ tâm vô cùng vì phải cưỡng lại lệnh của ông thị
trưởng. Đây cũng là lần thứ nhất trong đời tôi. Xin ngài hạ cố cho phép
tôi trình rằng việc này đúng là thuộc quyền hạn chúng tôi. Tôi xin theo ý
ngài thị trưởng, chỉ xét việc anh tư sản bị xúc phạm thôi. Tôi có mặt
tại đấy. Chính cái con này nó đã nhảy xổ túm lấy ông Bamataboa. Ông
Bamataboa là cử tri
(Ở
chế độ tư bản ngày xưa phải đóng thuế sản nghiệp đến một mức nào đó
hoặc có một chức vị cao trong xã hội mới được đi bầu. Thời điểm tác giả
viết tác phẩm này, số cử tri rất là hạn chế)

và là chủ tòa nhà to đẹp có bao lơn ở góc phố, nhà ba tầng gác dựng
toàn bằng đá tảng. Ấy! Ở đời có lắm việc như thế! Bẩm ngài thị trưởng,
dù sao đi nữa thì việc này cũng chỉ là một vụ vi cảnh ngoài đường, thuộc
phạm vi xét xử của chúng tôi. Vì thế tôi phải giam giữ con mụ Phăngtin.

Tức là ông Mađơlen khoanh tay trước ngực và nói với một giọng nghiêm khắc chưa ai trong thành phố từng nghe thấy:
-
Sự việc ông nói đây là một vụ vi phạm luật cảnh sát thành phố. Chiếu
theo các điều khoản 9, 11, 15 và 66 trong luật hình sự tố tụng thì quyền
thẩm phán vụ ấy là ở tôi. Vậy tôi ra lệnh thả người đàn bà này ra.

Giave cố sức lần cuối:
- Nhưng, thưa ngài…
- Còn về ông thời tôi nhắc lại điều 81 trong đạo luật ngày 13 tháng 12 năm 1799 về việc bắt giam người trái phép.
- Không nói gì cả…
- Nhưng mà…
- Đi ra – ông Mađơlen truyền lệnh.
Giave đứng nhận miệng đòn đánh từ trước mặt, vào giữa ngực, y như một người lính Nga (Người lính Nga dưới chế độ sa hoàng thường bị bắt đứng nghiêm mà nhận đòn). Hắn cúi rạp xuống tận đất chào ông thị trưởng rồi đi ra.
Phăngtin đứng tránh ra một bên và kinh hoàng nhìn hắn đi qua trước mặt.
Tâm
trạng của chị cũng đảo lộn lạ lùng. Chị vừa được thấy có hai thế lực
đối kháng giành giật con người chị. Dưới mắt chị, có hai người đương đối
chọi nhau, hai người cùng nắm trong tay đời sống của chị, tự do của
chị, cả linh hồn của chị và đứa con của chị. Một bên thì muốn xô chị vào
chỗ tối tăm, một bên thì muốn kéo chị ra ngoài ánh sáng. Con mắt kinh
hoàng của chị như nhìn thấy cuộc đấu phóng đại lên và hai người hiện ra
to lớn như hai hộ pháp: một là ông Thiện, một là ông Ác. Ông Thiện đã
thắng ông Ác. Cái ý nghĩ đã làm cho chị rung giận từ đầu đến chân là vị
thiên thần che chở cho chị lại chính là cái người mà chị hằng ghét cay
ghét đắng, cái ông thị trưởng mà chị cho là đã gây ra mọi oan trái, ông
Mađơlen. Hơn nữa chị lăng mạ ông ta một cách quá qu
t
như thế, lại chính là lúc ông ta cứu chị! Chị trông lầm, nghe lầm hay
chăng? Từ đây chị phải thay đổi tất cả tâm hồn đi hay sao?... Chị không
biết, chị run rẩy. Chị càng nghe càng bối rối, càng nhìn càng kinh
hoàng. Mỗi lời nói của ông Mađơlen mỗi lần tiêu dần bóng u ám của sự hằn
thù trong lòng chị và nẩy nở ra một cái gì đầm ấm, nó vừa là niềm vui
mừng, lòng tin tưởng và tình yêu thương.

Khi
Giave ra khỏi buồng rồi, ông Mađơlen quay sang phía chị, nói chuyện với
chị. Giọng ông chậm rãi khó khăn như cố cầm nước mắt:

-
Tôi đã nghe cô nói. Những chuyện xảy ra trước kia, tôi có biết gì đâu.
Tôi tin là cô nói thật, tôi cảm thấy là thật. Tôi cũng chẳng biết là cô
đã nghỉ việc ở xưởng tôi. Tại sao lúc ấy cô không đến tìm tôi? Thôi, bây
giờ thế này: tôi trả nợ cho cô; tôi cho người đi đón con cô về đây, hay
là cô đến ở với nó, tùy ý cô. Cô muốn ở lại đây, hay là ở Paris, hay ở
đâu nữa cũng được. Tôi sẽ trông nom cho cả hai mẹ con. Cô muốn làm nữa
hay nghỉ việc cũng được. Cần bao nhiêu tiền tôi sẽ đưa. Cô sẽ lại sống
cuộc đời lương thiện khi cô đã được ấm no sung sướng. Hơn thế, qua những
lời cô nói, nếu là thật cả - tôi tin là thật cả - thì cô vẫn là nười
trinh chính và thanh cao trước Chúa, cô nghe rõ chưa? Tội nghiệp!

Những
lời ấy, con người đang khốn khổ như Phăngtin nghe làm sao cho nổi. Được
sống với con Côdét! Hết cái kiếp sống nhơ nhuốc này! Được sống tự do,
đầy đủ, sung sướng, lương thiện cùng với con Côdét! Giữa cảnh cùng cực,
chị nhìn thấy hiện ra tất cả những mộng ước thiên đường! Chị ngây người
nhìn ông Mađơlen và chỉ kịp bật lên mấy tiếng khóc nức nở: Hu! Hu! Hu!
Hai ống chân khuỵu xuống, chị quì trước mặt ông Mađơlen. Ông ta chưa kịp
ngăn, chị đã vồ lấy tay ông mà hôn.

Rồi chị ngất đi.
Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:37 pm

QUYỂN VI



GIAVE



I



BẮT ĐẦU YÊN NGHỈ



Ông Mađơlen sai người vực Phăngtin về bệnh xá thợ thuyền đặt ngay ở nhà riêng của ông. Ông giao chị cho hai bà xơ trông nom. Đt chị vào giường nằm thì chị lên cơn sốt nặng. Một phần đêm chị mê sảng, nói huyên thuyên. Nhưng sau tồi chị cũng ngủ yên.
Mãi
đến trưa hôm sau, Phăngtin mới tỉnh dậy. Nghe có tiếng người thở ở đầu
giường, chị vạch màn trông ra thì thấy ông Mađơlen đang đứng yên nhìn
vật gì ở trên đầu giường. Con mắt của ông đầy vẻ trắc ẩn, lo âu và hình
như cầu khẩn. Chị trông theo thì thấy ông đương chăm chắm nhìn cây thánh
giá đóng ở trên tường.

Trong
tâm trí Phăngtin, hình ảnh ông Mađơlen đã khác trước. Trông ông như có
ánh hào quang tỏa ra. Ông mê mải như đang cầu nguyện. Chị nhìn ông một
lúc lâu không dám lên tiếng, mãi sau chị mới khẽ hỏi:

- Thưa ông, ông làm gì đấy?
Ông Mađơlen đứng ở đó đã một tiếng đồng hồ. Ông chờ Phăngtin tỉnh dậy. Ông nắm lấy tay chị, nghe mạch rồi hỏi:
- Cô thấy trong mình thế nào?
- Thưa khá. Tôi ngủ được. Hình như khỏe hơn nhiều. Chắc không việc gì.
Bây giờ ông mới trả lời câu hỏi đầu tiên của chị, làm như vừa mới nghe ra:
- Tôi cầu nguyện Chúa khổ nạn ở trên kia.
Trong thâm tâm ông muốn nói thêm: vì người đàn bà khổ nạn dưới này.
Cả
đêm hôm qua và sáng hôm nay ông Mađơlen đi dò hỏi về việc Phăngtin. Bây
giờ ông biết rõ tất cả những tình tiết thương tâm trong đời chị. Ông nói
tiếp:

-
Cô là một người mẹ đau khổ. Thôi, không nên thở than nữa, cũng nhờ thế
mà ngày nay cô mới hưởng quả phúc. Loài người làm nên thiên thần như thế
đó. Không phải lỗi ở họ: họ có biết cách gì khác hơn đâu. Cô xem đấy,
cảnh địa ngục cô vừa thoát khỏi chính là tầng thứ nhất của thiên đường.
Phải qua đó trước.

Ông thở dài não nuột. Còn Phăngtin thì nhìn vào ông mỉm cười một nụ cười huyền diệu, tuy có khuyết hai chiếc răng.
Cũng
trong đêm ấy, Giave viết một bức thư. Sáng sớm hôm sau hắn thân hành
đến tận nhà bưu điện Môngtơrơi để gửi. Thư gửi đi Paris, đề: “Kính đệ
ông Sabuiê, bí thư của ông giám đốc sở cảnh sát”.

Cũng
vì câu chuyện ở bót cảnh vệ đồn đại ra ngoài nên bà phụ trách bưu chính
và một vài người thóc mách trông thấy phong thư và nhận ra chữ Giave
thì đoán là hắn đệ đơn xin từ chức.

Về
phần ông Mađơlen, ông viết thư ngay cho vợ chồng Tênácđiê, Phăngtin nợ
chúng một trăm hai mươi phơrăng, ông gửi cho chúng ba trăm. Ông bảo
chúng trừ đi các khoản còn lại thì dùng làm chi phí để đưa con Côdét đến
Môngtơrơi, mẹ nó đang ốm cần được gặp nó.

Bức thư làm cho Tênácđiê lóa mắt. Hắn bảo vợ:
-
Mẹ kiếp, chớ buông con bé ra! Ai ngờ con chim sâu lại sắp hóa ra con bò
sữa. Tao đoán ra rồi. Chắc lại có thằng ngốc dại gái nào ăn phải bùa con
mẹ nó đây chứ gì!


phúc đáp bằng một tờ kê nợ năm trăm linh mấy phơrăng, làm rất khéo. Tờ
kê có đính hóa đơn không ai có thể ngờ vực, một cái của thầy thuốc, một
cái của hiệu bào chế. C
ng
trên ba trăm phơrăng. Đó là những đơn thật trong dịp hai đứa con nó bị
ốm một trận lớn chứ con Côdét có đau ốm gì. Vấn đề là ở chỗ khéo chữa
tên đi. Dưới tờ khai, Tênácđiê ghi chú: tạm nhận ba trăm phơrăng.

Ông Mađơlen lập tức gửi thêm ba trăm phơrăng với mấy chữ: “Đưa con Côdét sang ngay”. Thấy thế, Tênácđiê lại bảo:
- Trời! Thế này thì lại càng phải giữ chịt lấy con bé.
Bệnh tình của Phăngtin vẫn không đỡ. Chị vẫn nằm ở nhà thương.
Khi
nhận săn sóc cho “thứ gái đĩ ấy” các bà xơ có ý ghê tởm. Ai đã xem
những bức khắc chìm ở Remxơ chắc còn nhớ hình các trinh nữ đoan chính
bĩu môi trước những chị em lẳng lơ. Còn các việc thời cổ thì những đạo
cô thanh tâm khinh bỉ những hạng người lang chạ từ xưa chẳng qua là
những phản ứng tự nhiên của lòng tự trọng sâu xa của phụ nữ. Các bà xơ
cũng phản ứng như vậy nhưng mãnh liệt hơn vì các bà là những kẻ đi đạo
Chúa. Nhưng chỉ vài ngày sau, Phăngtin đã lấy được cảm tình của các bà.
Chị ăn nói dịu ngọt và khiêm tốn, nhất là tấm lòng mẹ của chị đã làm cho
các bà cảm động. Một hôm các bà nghe thấy chị nói giữa cơn sốt nặng:
“Tôi là một người tội lỗi, song lúc nào con tôi được đến với tôi thì tức
là Chúa đã tha thứ cho tôi. Khi trước tôi còn là con người hư hỏng, tôi
không dám đem con Côdét về nhà, tôi không nỡ để con tôi phải nhìn tôi
ng
ơ
ngác và buồn rầu. Thế nhưng lại chính vì chút máu rơi ấy mà thân tôi
nên nông nỗi này. Chính vì thế mà Chúa tha thứ cho tôi. Bao giờ con
Côdét ở đây, lúc ấy là lúc tôi chịu phúc Chúa ban cho. Tôi sẽ nhìn nó,
nhìn cái mặt ngây thơ vô tội ấy thì lòng tôi cũng hồ hởi ra. Nó không
biết gì hết. Nó đương còn là thiên thần, phải không các bà xơ? Ở vào
tuổi ấy, cánh thiên thần đã rụng đâu!”

Ông Mađơlen mỗi ngày đến thăm Phăngtin hai lần, lần nào chị cũng hỏi:
- Con Côdét sắp về chưa?
Ông trả lời:
- Có lẽ sáng mai. Tôi nhờ đón nó đây, không sớm thì chiều thôi.
Nét mặt xanh xao của người mẹ rạng rỡ lên:
- Ôi chao ôi! Tôi sẽ sung sướng biết là chừng nào!
Như
trên đã nói, bệnh tình của Phăngtin không thuyên giảm, trái lại mỗi
ngày một thêm trầm trọng. Nắm tuyết giá lạnh áp vào giữa hai xương bả
vai làm cho mồ hôi không thoát ra được, do đó chứng bệnh âm ỉ xưa nay
bùng phát ra dữ dội. Người ta bắt đầu chữa bệnh phổi cho chị theo một
phương pháp đang còn thí nghiệm.

Thầy thuốc nghe ngực Phăngtin rồi lắc đầu. Ông Mađơlen hỏi:
- Thế nào?
- Hình như người này có đứa con, chị muốn được thấy mặt?
- Vâng.
- Nếu vậy ông nên mau cho tìm con chị về.
Ông Mađơlen giật mình:
Phăngtin hỏi:
- Thầy thuốc bảo thế nào, thưa ông?
Ông Mađơlen gượng cười:
- Ông ấy bảo phải tìm ngay cháu bé về đây. Có nó cô sẽ khỏe ngay.
-
Ồ, thật thế đấy! Nhưng không hiểu vì lẽ gì mà vợ chồng Tênácđiê cứ giữ
mãi con Côdét thế nhỉ? Trời ơi! Nó sắp về rồi. Thôi, lần này thì hạnh
phúc chẳng còn xa xôi gì nữa!

Nhưng
tên Tênácđiê nhất định “không chịu buông con bé”. Nó viện đủ mọi lý do,
chẳng đâu vào đâu cả! Nào là con Côdét ươn mình, như thế thì trời mùa
đông thế này không thể lên đường được, nào là còn mấy món nợ vặt kêu réo
quá, nó đang lục tìm các hóa đơn...

Ông Mađơlen bảo:
- Tôi phải cho người đi mang con Côdét về mới được. Nếu cần tôi sẽ đi lấy.
Phăngtin bèn đọc cho ông viết một bức thư rồi chị ký xuống dưới:
Ông Tênácđiê,
Ông giao con Côdét cho người này. Người ta sẽ trả đủ những khoản vặt vãnh còn thiếu. Trân trọng kính chào ông.
Giữa
lúc ấy lại xảy ra một biến cố nghiêm trọng. Cuộc đời của chúng ta như
gọt trong một khối đá huyền bí, dù chúng ta có dày công mài giũa thế nào
đi nữa, dạng vân đen của số mệnh cũng vẫn mãi mãi hiện lên.

II



THẾ NÀO MÀ GIĂNG LẠI HÓA RA SĂNG




Một
buổi sáng, ông Mađơlen ở trong phòng giấy, đang giải quyết nốt mấy việc
khẩn thiết của tòa thị chính, phòng khi ông phải đích thân đi
Môngphecmây. Có người báo viên thanh tra cảnh sát Giave xin vào yết
kiến. Nghe thấy nói đến Giave, ông Mađơlen không nén được một cảm giác
khó chịu. Từ ngày xảy ra việc lôi thôi ở sở cảnh sát, Giave càng lánh
mặt ông và ông cũng không gặp hắn lần nào nữa.


- Cho vào.

Giave bước vào.

Ông
Mađơlen vẫn ngồi bên lò sưởi, tay cầm bút, mắt để vào tập hồ sơ mà ông
vừa giở từng tờ vừa phê chú. Đó là những biên bản vi cảnh. Ông không bỏ
công việc vì Giave. Thấy nói đến hắn, ông không thể không nghĩ thương
cho Phăngtin, cho nên ông làm mặt lạnh.


Giave chào ông thị trưởng rất cung kính. Ông ngồi quay lưng về phía hắn, tay không ngừng ghi chú.

Giave bước lên hai ba bước và yên lặng chờ.

Người
thầy tướng nào đã theo dõi tâm linh Giave, biết Giave là con người man
rợ phục vụ văn minh, là sự hỗn hợp kỳ dị của người La Mã và người Spác
(Người La Mã cương nghị, tôn trọng nhiệm vụ; người Spác anh dũng và khắc khổ),
của người thầy tu và anh cai lính, là tên gián điệp không nói dối,
thằng mật thám trong sạch, người ấy lại từng biết hắn có thành kiến ngầm
từ lâu với ông Mađơlen và đã xung đột với ông về vụ Phăngtin, nếu người
thầy tướng ấy lúc bấy giờ lại trông thấy Giave thì hẳn phải tự hỏi: “Có
việc gì xảy ra thế?”


Ai
đã biết rõ Giave là người ngay thẳng, minh bạch, thành thực, liêm khiết,
nghiêm khắc và ác liệt tất đoán ra là hắn vừa mới sống qua một diễn
biến nội tâm lớn lao. Giave không có ý nghĩ gì mà không hiện ngay lên
nét mặt. Hắn cũng như những người cục khác, dễ bốc nóng và cũng dễ lành.
Nhưng không bao giờ lại thấy vẻ mặt hắn kỳ lạ và bất ngờ như lúc này.
Lúc vào, hắn cúi chào ông Mađơlen, nét mặt không có chút gì là hờn oán,
giận dỗi và nghi ngờ gì nữa. Hắn dừng lại cách ghế ông vài bước và hắn
đứng yên. Dáng điệu của hắn rất là phục tòng. Hắn vừa thô kệch, vừa thật
thà, vừa nghiêm lạnh, như một người chưa bao giờ dịu ngọt, nhưng luôn
nhẫn nại. Hắn đứng chờ, hắn không nói, không nhúc nhích chân tay; hắn
khúm núm một cách thành khẩn và kiên trì một cách bình tĩnh, mặc cho ông
thị trưởng lúc nào muốn quay lưng lại thì quay, tay hắn cầm mũ, mắt
nhìn xuống, dáng người hắn vừa giống anh lính đứng trước người sĩ quan,
vừa giống tên tội phạm đứng trước quan tòa. Bao nhiêu tính tình cũng như
bao nhiêu ý nghĩ người ta thường gán cho hắn nay không thấy một tý gì
cả. Khuôn mặt kín và thật như đá của hắn đượm một vẻ buồn bã vô hạn. Tất
cả con người hắn là sự biểu hiện của sự hạ mình, sự kiên quyết và sự
cam chịu can đảm.


Mãi sau, ông thị trưởng bỏ bút quay lại:

- Thế nào? Cái gì đó? Có việc gì thế, ông Giave?

Giave đứng lặng một hồi. Khi hắn trả lời thì giọng hắn trang nghiêm mà buồn buồn, nhưng vẫn thật thà đơn giản:

- Bẩm ông thị trưởng, có một việc vi phạm nặng.

- Việc gì?

- Bẩm có một viên chức cấp dưới vô lễ đối với quan trên, vô lễ rất nặng. Bổn phận tôi là báo cáo việc ấy với ngài.

- Viên chức cấp dưới ấy là ai thế?

- Là tôi.

- Là ông?

- Thế vị quan trên kia là ai?

- Thưa ông, là ngài thị trưởng.

Ông Mađơlen ngồi thẳng người lên. Giave vẫn nghiêm khắc cúi mặt nói tiếp:

- Thưa ông, tôi đến xin ông tư lên cấp trên cách chức tôi.

Ông Mađơlen kinh ngạc, há miệng toan nói, Giave không để ông nói, vẫn tiếp:

-
Tôi biết thế nào ông cũng hỏi sao tôi không xin từ chức, nhưng từ chức
còn nhẹ quá. Từ chức còn là danh giá. Tôi đã phạm lỗi phải chịu trừng
phạt, nhà nước phải đuổi tôi về mới đúng.


Ngừng một tí, hắn lại nói:

- Thưa ông, hôm nọ ông nghiêm khắc với tôi một cách bất công. Hôm nay thì xin ông lấy công tâm mà nghiêm khắc cho.

Ông Mađơlen kêu lên:

-
Thế nào mới được chứ? Cái gì mà lý sự khó hiểu thế? Như thế nghĩa là thế
nào? Ông xúc phạm tôi ở chỗ nào? Ông đã làm gì tôi? Ông có lỗi gì đối
với tôi? Ông tự buộc tội ông, yêu cầy thay ông...


- Đuổi về.

- Ừ thì đuổi về, đúng đấy. Nhưng tôi không hiểu gì cả?

- Thưa ông thị trưởng, để tôi xin nói rõ.

Giave thở dài não ruột. Vẫn buồn rầu, vẫn nghiêm nghị hắn nói:

- Thưa ông, cách đây sáu tuần lễ, cái ngày có chuyện lôi thôi về người gái điếm ấy, tôi giận quá nên đi tố cáo ông.

- Tố cáo!

- Vâng, tố cáo với ông giám đốc cảnh sát Paris.

Ông Mađơlen vốn cũng như Giave không mấy khi cười nghe thấy thế cũng phải phì cười.

- Tố cáo thị trưởng đã xâm phạm quyền hạn của cảnh sát?

- Không. Tố cáo ngài là một tên tù khổ sai cũ.

Mặt ông thị trưởng tái nhợt.

Giave vẫn cúi đầu nói tiếp:

- Tôi cho là như thế. Từ lâu tôi tưởng tượng ra như vậy. Dáng người giống nhau, việc ông hỏi han tìm tòi ở Phavơrôn,
cái sức khỏe của ông, chuyện ông cứu Phôsơlơvăng, tài bắn súng của ông,
bước đi hơi khập khiễng của ông và còn gì nữa, biết bao nhiêu thứ! Toàn
là nhảm nhí! Thế mà tôi đã đồ rằng ông là một thằng tên là Giăng
VanGiăng...


- Một thằng tên là?... Ông nói tên là gì?

- Giăng VanGiăng. Một thằng tù khổ sai mà tôi được biết hai mươi năm trước đây, khi tôi còn là cai ngục ở Tulông.
Mãn hạn tù, hình như tên Giăng VanGiăng lại ăn trộm ở nhà một ông giám
mục. Rồi hắn lại cầm khí giới cướp giật một thằng bé Xavoa giữa đường
cái quan. Đã tám năm nay hắn trốn biệt, không biết bằng cách nào, tìm
mãi không ra. Tôi thì cứ tưởng là... Thế rồi tôi làm thật! Cũng là do
tôi giận. Tôi đã tố cáo ông với người giám đốc cảnh sát.


Ông Mađơlen từ nãy lại cầm tập hồ sơ xem. Hoàn toàn bình thản, ông hỏi:

- Thế người ta bảo làm sao?

- Là tôi điên.

- Thật ư?

- Người ta nói có lý, tôi điên thật.

- Cũng may là ông tự biết.

- Bẩm không biết thế nào được, người ta đã bắt được chính tên Giăng VanGiăng rồi!

Tờ giấy ông Mađơlen đương cầm lìa khỏi tay. Ông ngẩng lên nhìn chằm chằm vào mặt Giave, nói giọng khó tả:

- À!

Giave vẫn nói:

-
Thưa ngài, đầu đuôi thế này. Nghe như ở miền này, về phía Aidi Lơhôclôsê
có một thằng cha gọi là Săngmachiơ. Hắn nghèo khổ lắm, không ai để ý.
Cái ngữ ấy chẳng biết chúng sống bằng cách nào. Mùa thu gần đây, lão
Săngmachiơ bị bắt về tội trộm táo ở vườn nhà tên... thôi cũng không cần
nhớ làm gì. Đã xét nghiệm là trộm có trèo tường, bẻ cây. Người ta bắt
lão Săngmachiơ, tay lão còn cầm một cành táo. Người ta giam lão lại. Đến
đây mới chỉ là một vụ thường phạm thôi. Nhưng rồi mới biết quả thật có
lưới Trời! Vì nhà giam đổ nát, quan dự thẩm cho đưa Săngmachiơ về nhà
lao Arát. Ở nhà lao Arát có tên Bơrơvê vốn là tù khổ sai mãn hạn, nay
không biết về tội gì lại phải giam. Hắn tỏ ra biết hối cải nên được lấy
lên coi cổng. Thưa ngài, vừa giải tên Săngmachiơ đến thì tên Bơrơvê đã
kêu ngay lên: “Ô này! Tớ biết thằng này mà! Cùng bọn khổ sai trước cả
đây. Nhìn tớ xem nào! Cậu là Giăng VanGiăng!” Săngmachiơ làm bộ ngớ
ngẩn:


- Giăng VanGiăng! Giăng VanGiăng nào nhỉ?

-
Thôi, đừng vờ vịt nữa. Mày chính là Giăng VanGiăng! Mày trước có ở ngục
Tulông. Đã hai mươi năm nay rồi. Bọn mình ở với nhau mãi mà!


Thằng Săngmachiơ chối. Ối chà! Còn lạ gì. Người ta điều tra, người ta xoắn vào chuyện ấy và người ta tìm ra thế này:

Trước đây khoảng ba mươi năm. Tên Săngmachiơ làm nghề xén cây ở nhiều nơi, nhất là Phavơrôn.
Đến đây thì mất dấu vết nó. Mãi bao nhiêu năm sau mới thấy lại nó ở
Ôvécnhơ, rồi ở Paris; nó khai rằng ở đấy nó làm nghề chữa xe và có một
đứa con gái làm thợ giặt, nhưng chẳng có bằng chứng gì cả. Rồi nó đến ở
xứ này. Thế còn Giăng VanGiăng trước khi vào tù vì tội trộm thì làm nghề
gì? Cũng xén cây. Ở đâu? Cũng Phavơrôn. Lại còn một sự kiện nữa: Thằng
Giăng VanGiăng ấy, tên thánh nó là Giăng và tên mẹ nó là Machiơ. Có lạ
gì! Đi tù về nó lấy tên họ mẹ để
đổi
tên nó thành Giăng Machiơ cho dễ trốn tránh. Thế rồi nó đến ở Ôvecnhơ. Ở
đấy tiếng Giăng giọng địa phương đọc ra Săng, cho nên mới gọi là
Săngmachiơ. Nó cứ để vậy và thế là nó hóa ra Săngmachiơ. Thưa ngài vẫn
theo dõi câu chuyện đấy chứ? Người ta cho hỏi ở Phavơrôn, gia đình Giăng
VanGiăng không còn ai. Chẳng biết là phiêu bạt đi đâu. Bẩm, ngài còn lạ
gì, ở các tầng lớp hạ lưu ấy, những chuyện cả một gia đình tiêu biến đi
không phải là hiếm. Tìm mãi mà chẳng thấy gì. Cái hạng ấy nếu không là
bùn nhơ thì cũng là tro bụi thôi. Vả lại đầu mối câu chuyện cách đây ba
mươi năm, ở Phavơrôn không còn ai biết Giăng VanGiăng nữa. Người ta hỏi ở
Tulông. Ngoài tên Bơrơvê chỉ còn hai tên khổ sai nữa có biết Giăng
VanGiăng, hai thằng khổ sai chung thân Côsơpay và Sơniđiơ. Lôi hai thằng
ấy đem đi nhận diện. Gặp nhau, chúng nó nhận ra ngay. Cả ba đều nói đó
là Giăng VanGiăng. Cũng tuổi ấy, năm mươi tư, cũng vóc người ấy, cũng
dáng điệu ấy. Nghĩa là đích thị nó. Giữa lúc ấy thì tôi gửi giấy tố cáo
ngài ở vụ cảnh sát Trung ương. Họ trả lời rằng tôi mất trí bởi vì tên
Giăng VanGiăng hiện đang bị giam cứu tại Arát. Ngài tưởng tượng xem tôi
ngạc nhiên thế nào, vì tôi cứ đinh ninh rằng đã nắm cổ tên Giăng
VanGiăng ở đây rồi! Tôi bèn viết thư cho ông dự thẩm. Ông ta cho đòi tôi
đến và đem tên Săngmachiơ ra đối chứng...


- Kết quả là thế nào?

Giave thẳng thắn và buồn rầu nói:

- Thưa ngài, chân lý vẫn là chân lý. Tôi bực lắm, nhưng quả thật thằng ấy là Giăng VanGiăng rồi. Tôi cũng nhận ra nó.

Ông Mađơlen khe khẽ hỏi:

- Ông có chắc không?

Giave cười một cách đau đớn, tỏ ra mình chắc chắn cả mười phần.

- Thưa, chắc.









Hắn đứng lặng một lát, dáng suy nghĩ, ngón tay tự nhiên mân mê đĩa mùn cưa thấm mực để trên bàn. Hắn nói tiếp:

-
Hơn thế nữa, bây giờ tôi được nhìn mặt chính tên Giăng VanGiăng rồi, tôi
không hiểu làm sao trước kia tôi lại có thể lầm được. Thưa ông thị
trưởng, xin ông tha lỗi cho tôi.


Kiêu
hãnh như hắn mà chịu van xin khuất phục một người sáu tuần lễ trước đây
đã làm hắn mất thể diện trước mặt bọn lính gác và đã quát đuổi hắn ra
khỏi cửa, Giave tỏ ra là người chân chất và có nhân cách, nhưng hắn đâu
có biết thế. Ông Mađơlen không để ý tới lời cầu xin ấy, ông hỏi đột
ngột:


- Thế người ấy khai thế nào?

- À
vâng, thưa ngài, câu chuyện ấy thành nghiêm trọng. Nếu phải là Giăng
VanGiăng thì là tái phạm. Trèo tường, bẻ táo, nếu là do một đứa trẻ thì
chỉ là một vụ phá phách ranh mãnh, nếu là một người lớn thì là một tội
trừng trị; nếu lại là một tên khổ sai thì chính là một tội đại hình. Có
leo trèo, có lấy cắp, có cả. Thế là không phải việc của tòa án trừng trị
nữa, mà phải đến tòa đại hình. Không phải chỉ mấy ngày phạt giam mà là
đi khổ dịch chung thân ở hải thuyền. Với lại còn cái vụ thằng xứ Xavoa,
tôi mong thế nào rồi cũng vạch ra. Ối chà! Còn là lắm chuyện làm cho
phải vùng vẫy hoảng lên. Vâng, phải vùng hoảng nếu là một đứa khác.
Nhưng Giăng VanGiăng là một thằng xảo quyệt. Ấy! Tôi nhận đích ra nó
cũng còn chính vì điểm ấy nữa. Kẻ khác thì thấy nóng đến đít, đã cuống
quít lên, kêu trời kêu đất như chiếc ấm nước reo trên bếp lửa, đã thề
sống thề chết là không phải Giăng VanGiăng... nhưng hắn thì có vẻ không
hiểu, hắn chỉ nói: “Tôi là Săngmachiơ, tôi chỉ biết có chừng ấy!” Hắn
làm bộ kinh ngạc, hắn giả vờ ngu si, thế mới khôn chứ. Ối chà! Thằng ấy
láu đấy! Nhưng không sao, tang chứng đã rành rành ra đấy. Bốn người nhận
được mặt nó. Thằng bợm già tránh sao khỏi tội. Việc đưa ra tòa đại hình
Arát. Tôi sắp đi làm chứng nay mai. Tôi đã được giấy tống đạt.


Ông Mađơlen đã quay vào bàn giấy, cầm tập hồ sơ điềm nhiên xem từng tờ, vừa đọc vừa viết như bận rộn lắm.

Ông nói với Giave:

-
Được rồi ông Giave ạ. Thực ra, tôi cũng chẳng cần biết các chi tiết ấy
làm gì. Chúng ta mất thì giờ vô ích. Chúng ta còn nhiều việc khẩn cấp
hơn. Ông Giave, ông đến ngay nhà bà Buydôpiê bán thuốc lá ở góc phố Xanh
Xôn. Ông bảo bà ấy đệ đơn kiện tên đánh xe Sêtnêlông. Tên ấy là một đứa
vũ phu, nó suýt để xe đè chết hai mẹ con bà ta. Phải trừng phạt nó mới
được. Rồi ông đến nhà ông Sacxenlê ở phố Săngpinhi xem việc ông ta thưa
người hàng xóm để ống máng nước mưa chảy sang làm hỏng cả nền nhà ông ta
như thế nào. Đoạn ông đến khám và lập biên bản về mấy vụ vi cảnh mà
người ta mới báo cáo cho tôi, ở phố Guybua, tại nhà quả phụ Đôri và ở
phố Garơ tại nhà bà Lư Bôtxê. Nhưng có lẽ tôi giao cho ông nhiều việc
quá. Ông sắp đi vắng cơ mà? Có phải ông vừa bảo là tám chín hôm nữa phải
đi Arát về việc ấy không?


- Thưa ông, phải đi sớm hơn.

- Hôm nào nhỉ?

- Bẩm hình như tôi đã trình với ông là đến mai tòa sẽ xử và nội đêm nay tôi phải đáp xe đi ngay.

Ông Mađơlen khẽ rùng mình:

- Xử mấy hôm mới xong?

- Chỉ một ngày là cùng. Chậm lắm là tối mai tuyên án. Nhưng tôi không cần chờ tuyên án, vì án ấy thế nào mà chẳng thành, khai xong, tôi về ngay.

- Được rồi.

Ông Mađơlen nói thế và giơ tay ra hiệu cho Giave lui ra.

Giave đứng yên.

- Bẩm, xin lỗi ngài.

- Gì đó nữa?

- Thưa ông thị trưởng, còn việc nữa xin nhắc ông.

- Việc gì vậy?

- Việc cách chức tôi.

Ông Mađơlen đứng dậy:

-
Ông Giave ông là một người có nhân cách, tôi quí trọng ông. Ông phóng
đại sự sai lầm của ông. Huống hồ việc này cũng lại là một vụ xúc phạm
đối với riêng tôi thôi. Ông Giave ạ, ông đáng được thăng chức chứ không
phải giáng đâu. Tôi muốn lưu ông lại.


Giave
giương mắt nhìn ông Mađơlen. Trong con người trong sạch, người ta như
thấy cái lương tâm của hắn không sáng suốt cho lắm, nhưng đoan chính và
cương trực. Hắn bình tĩnh nói:


- Thưa ông thị trưởng, tôi không thể ưng thuận như thế được.

- Một lần nữa, tôi nói việc ấy chỉ can cập riêng tôi.

Vẫn theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, Giave nói tiếp:

-
Bảo là phóng đại thì tôi không phóng đại. Đấy, tôi nghĩ như thế này. Tôi
đã nghi ngờ ngài rất vô lý. Cái ấy không hề gì. Bọn chúng tôi vẫn có
quyền được nghi ngờ mặc dầu nghi ngờ người trên mình là quá lạm. Nhưng
trong cơn nóng giận, để báo thù, tôi đã tố giác ngài là một tên tù khổ
sai, mặc dù chẳng có bằng cứ. Tố cáo một người đáng tôn kính, một ông
thị trưởng, một quan thẩm phán là tù khổ sai, điều ấy mới là nặng. Nặng
lắm. Tôi là viên chức chính quyền mà tôi lại xúc phạm vào chính quyền
bằng cách xúc phạm ngài! Giả sử dưới quyền tôi có kẻ nào đó không xứng
đáng làm viên chức nữa và tống cổ đi. Thế thì phải tính thế nào đối với
tôi chứ? Bẩm ông thị trưởng, cho tôi nói một lời nữa. Trong đời tôi, tôi
thường nghiêm khắc, nghiêm khắc với người khác. Thật là đúng. Tôi làm
thế là phải. Bây giờ nếu tôi không tự nghiêm khắc với tôi thì những việc
tôi làm trước là đúng nay sẽ hóa ra không đúng nữa. Có lẽ nào tôi lại
vị nể tôi hơn kẻ khác? Không thể được. Thế nào! Tôi chỉ biết trừng trị
người ta mà không biết tự trừng trị mình à? Chẳng hóa ra mình là thằng
khốn nạn! Chẳng hóa ra những đứa đã gọi tôi là “Thằng Giave bần ti
n”
lại có lý hay sao? Bẩm ngài thị trưởng, tôi không cầu mong ngài xử tốt
đối với tôi. Cái tốt ấy khi ngài xử với kẻ khác đã làm cho tôi bất bình,
cho nên tôi cũng không muốn ngài đối xử tốt với tôi. Cái tốt nó xử cho
đứa gái điếm hơn ông tư sản, anh cảnh sát hơn ông thị trưởng, kẻ ở dưới
hơn người ở trên, cái tốt ấy tôi cho là cái tốt xấu. Cứ tốt với nhau
kiểu ấy thì xã hội sẽ tan rã mất! Ôi chao! Tốt thì dễ, công bằng mới là
khó! Ấy, nếu ngài mà quả là cái tên tù tôi đoán thì không bao giờ tôi
thương hại đâu! Nếu mà thế, thì ngài đã biết tay tôi! Thưa ông thị
trưởng, tôi xử với người ta thế nào thì tôi phải xử với tôi thế ấy.
Những khi tôi trừng trị kẻ làm sằng, khi tôi đàn áp bọn gian phi, tôi
thường tự nhủ: “Còn mày đấy, nếu mày cũng làm láo, cũng phạm lỗi thì
đừng có hòng thoát!” Tôi đã làm láo, tôi đi bắt được tôi phạm lỗi! Cho
chết! Đuổi, cách, tống cổ về! Đúng lắm. Tôi có hai cánh tay khỏe, tôi về
cày cuốc cũng được không sao. Thưa ông thị trưởng, việc quan phải thế
để răn người. Tôi yêu cầu chỉ có thế, là cách chức viên thanh tra Giave.


Giọng
hắn vừa khiêm nhượng vừa kiêu hãnh, vừa thất vọng vừa tin tưởng khiến
cho con người lương thiện khác thường thấy trở thành vĩ đại một cách kỳ
quặc.


Ông Mađơlen bảo: “Để tôi xét sau” và chìa tay cho Giave.

Giave giật lùi và phản khán:

- Thưa ông thị trưởng, xin lỗi ông, không thể thế được. Một ông thị trưởng không bắt tay một tên mật thám.

Hắn lẩm bẩm nói thêm:

- Mật thám, đúng thế. Một khi ta đã lạm quyền cảnh sát thì ta chỉ còn là một thằng mật thám thôi.

Hắn cúi rạp xuống chào ông Mađơlen rồi đi ra cửa. Đến cửa hắn quay lại mắt vẫn nhìn xuống:

- Thưa ngài thị trưởng, tôi xin cứ làm việc cho đến khi có người thay thế.

Hắn đi ra. Ông Mađơlen ngồi mơ màng lắng nghe bước chân rắn rỏi, vững chắc của Giave xa dần ở ngoài hành lang.





Về Đầu Trang Go down
ThiênThầnTrắng
Tước hiệu S-MOD

S-MOD
ThiênThầnTrắng

Posts : 850
TEs : 6085
Điểm nổi tiếng : 25
Join date : 16/10/2011
Age : 32
Đến từ : Điện Biên yêu dấu

Tài sản của tôi
My Group:
Huân Chương & Championship Belt:

Pet:

Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitimeMon Nov 07, 2011 6:40 pm

QUYỂN VII



VỤ ÁN SĂNGMACHIƠ



I



BÀ XƠ XEMPƠLIT




Những
sự việc sắp kể sau đây không phải ở Môngtơrơi người ta đều biết. Nhưng
chút ít phong thanh cũng đã để lại trong thành phố này một ấn tượng hết
sức đặc biệt. Vì thế chúng tôi thấy phải kể tỉ mỉ, chi tiết, nếu không
sách này sẽ có thiếu sót lớn. Trong các chi tiết ấy có đôi ba cái có vẻ
vô lý nhưng xin cứ giữ nguyên cho đúng sự thật.


Buổi chiều hôm tiếp Giave, ông Mađơlen đến thăm Phăngtin như thường lệ.

Trước khi vào gặp bệnh nhân, ông cho mời bà xơ Xempơlit đến gặp ông.

Hai bà phước trông coi bệnh xá, bà xơ Pecpêtuy và bà xơ Xempơlit đều là những nhà tu hành từ thiện.


xơ Pecpêtuy là một người đàn bà nhà quê giống bao nhiêu người đàn bà quê
khác, một bà phước thô vụng, vào cửa Chúa cũng như vào chợ. Bà đi tu
cũng như người ta đi làm người nấu bếp. Hạng người như thế kể ra cũng
không hiếm. Các dòng tu thường sẵn sàng đón nhận thứ đồ gốm nặng nề, cục
kịch đó để dễ nắn theo khuôn khổ của dòng mình. Thực ra những người quê
mùa ấy lại cần thiết cho những công việc nặng nhọc ở tu hành, việc biến
đổi cũng chẳng vấp váp gì và cũng chẳng cần công phu là mấy. Ở làng bên
hay ở nhà tu kín, cái căn bản dốt nát vẫn giống nhau nên anh nhà quê có
thể biến ngay thành nhà tu hành dễ dàng như đã được chuẩn bị sẵn. Cái
áo lao động nới rộng ra một tý là có ngay cái áo tu hành vậy.



Pecpêtuy là một người đẫy đà, quê ở Martin, gần xứ Pôngtoa. Bà nói giọng
địa phương, lại luôn mồm cầu kinh và luôn mồm lẩm bẩm. Thuốc thang cho
bệnh nhân bà cũng tùy người, xem mặt. Ai ngoan đạo thì chén thuốc bà sắc
nhiều đường, ai giả dối thì bà cho ít. Đối với người ốm thì bà biết dịu
dàng. Đối với người sắp chết thì bà càu nhàu cau có ném Chúa vào mặt
người ta, còn cầu nguyện cho người sắp chết thì giọng giận dữ, nặng
chình chịch, chẳng chút tôn trọng giờ phút lâm chung của họ. Tính bà lại táo tợn và ngay thẳng. Da mặt lúc nào cũng đỏ gay.



xơ Xempơlit người lại trắng như bạch lạp. Hai bà đứng với nhau thì y như
cây bạch lạp đặt cạnh cây nến mở bò. Thánh Vanhxăng đơ Pôn đã khéo ghi
lại một cách tài tình hình ảnh các bà phước bằng những lời thật đẹp, ca
ngợi cuộc đời phụng sự đầy kham khổ nhưng tự do, tự nguyện của các bà
ấy: “Các bà sẽ coi nhà người bệnh là nhà tù, căn phòng trọ là buồng cấm,
nhà thờ chung trong xứ là nhà nguyện, đường phố hoặc nhà thương là nơi
tu kín. Tường lũy, song sắt là ở nơi các bà kính vâng lời Chúa, và chiếc
khăn che mặt cho các bà chính là đức khiêm tốn của các bà trước mọi
người”. Bà xơ Xempơlit là hình ảnh vô cùng sinh động của lý tưởng ấy.
Tuổi tác bà không ai có thể đoán đúng được. Hình như lúc trẻ bà cũng
không ra trẻ và bây giờ bà có vẻ chẳng bao giờ già được nữa. Bà thật là
một con người – tôi không dám nói là một người đàn bà – điềm đạm, khắc
khổ, tiếp xúc với người thì dễ dãi nhưng lạnh lùng và chẳng bao giờ nói
điều gì sai sự thật. Bà dịu dàng đến mức tưởng như là mỏng mảnh dễ vỡ,
thế mà lại rắn chắc hơn cả sắt đá. Bà săn sóc bệnh nhân với những ngón
tay b
úp
măng thanh khiết. Có thể nói trong lời ăn tiếng nói của bà có cả sự yên
lặng! Bà chỉ nói đủ cái gì đáng nói. Giọng nói của bà lại có cái gì an
ủi, có thể đem lại sự tin tưởng trong một phòng xưng tội và say mê trong
một phòng tiếp khách. Con người thanh tao ấy mà chịu được chiếc áo vải
thô
, chắc vì chiếc áo thô kệch đó nhắc nhủ mình thường xuyên nhớ đến Trời,
đến Chúa. Có một chi tiết cần nhấn mạnh là bà không bao giờ nói dối,
không bao giờ vì một lợi ích gì dù là vô can đối với mình đi nữa, bà lại
chịu nói một lời trái với sự thật, sự thật thiêng liêng. Đó là đặc tính
của bà, đó cũng là đặc điểm nổi bật trong đức hạnh của bà trong dòng
tu, bà gần như nổi tiếng vì cái nết trung thực không gì lay chuyển đó.


Cha
Xica nói về bà trong một bức thư gửi cho người điếc – câm Matxiơ như
sau: - Chúng ta dù thành thật, ngay thẳng trong trắng đến đâu, cũng
không khỏi có tí bợn trong lòng vì một đôi lần nói dối vặt vãnh, không
hại gì. Nhưng bà thì dứt khoát không. Thật ra, có cái gọi là dối vặt
vãnh, vô hại không? Nói dối là tuyệt đối sai rồi. Vậy thì có thể nào nói
dối tí chút được; đã dối là dối, dối là đi theo ma quỷ rồi. Vì quỷ Xa –
tăng còn có tên là Lừa dối. Bà ta nghĩ vậy và đã nghĩ vậy nên làm vậy.
Vì thế mà người bà ta trắng như trên đã nói. Màu trắng sáng ngời cả trên
môi và trên nét mặt làm cho nụ cười cũng trắng mà mắt nhìn cũng trắng.
Lương tâm bà trong suốt như gương không tí mạng nhện không mảy bụi nào.
Bước vào dòng thánh Vanhxăng đơ Pôn bà lấy tên Xempơlit là có dụng ý
riêng. Là vì đó là tên của một bà thánh. Bà này là người có tiếng trung
thực, thà chịu khoét hai vú chứ nhất định không chịu nói sai quê quán
của mình; giá đừng nhận là sinh ở Xiracuydơ, mà nói sinh ở Xôgiét thì bà
ấy đã khỏi bị giết. Bà xơ Xempơlit lấy tên bà này làm tên thánh của
mình thật là xứng đáng.


Hồi mới bước vào nhà dòng, bà có hai tật xấu là ham ăn quà và thích nhận thư từ. Hai tật xấu ấy về sau dần dần bà sa chữa được. Sách vở bà chỉ đọc mỗi một quyển kinh bằng chữ La – tinh in chữ thật lớn. La – tinh thì bà không hiểu gì nhưng quyển sách thì bà hiểu.

Người
đàn bà từ tâm ấy cảm thấy Phăngtin là con người mà đức hạnh tiềm tàng,
nên đem lòng thương và hết sức chăm sóc cho riêng chị.


Ông
Mađơlen gọi bà ra một nơi dặn dò bà trông nom cho Phăngtin, giọng nói
của ông có vẻ lạ lùng khiến về sau bà nhớ mãi. Nói chuyện xong với bà
xơ, ông lại gần Phăngtin.


Ngày nào Phăngtin cũng chờ ông Mađơlen đến thăm như người ta chờ một tia sáng mặt trời ấm áp và tươi vui.

Chị bảo các bà xơ:

- Tôi chỉ sống lúc có ông thị trưởng ở đây thôi.

Hôm ấy chị sốt nhiều. Vừa thấy ông Mađơlen chị hỏi ngay:

- Côdét đâu?

Ông cười đáp:

- Nay mai.

Ông
đến thăm Phăngtin cũng như mọi ngày. Có điều hôm ấy ông ở lại lâu đến
cả giờ chứ không phải nửa giờ như mọi bận. Làm cho Phăngtin hết sức vui
mừng. Ông dặn đi dặn lại mọi người đừng để cho chị phải thiếu một thứ
gì. Có lúc người ta thấy mặt ông sa sầm nhưng hiểu ngay đó là tại ông
thầy thuốc vừa ghé tai ông nói nhỏ:


- Chị ấy yếu đi nhiều.
Sau
đó ông trở về thị sảnh và người hầu việc thấy ông chăm chú xem xét bản
đồ giao thông toàn quốc trong phòng, rồi lấy giấy ghi vài chữ số bằng
bút chì.







II



SỰ TINH Ý CỦA NGƯỜI CHỦ XE XCÔPHƠLE




Ông đi từ thị sảnh đến đầu tỉnh, tìm vào nhà một người cho thuê xe ngựa. Lão ta người xứ Phơlăngđơrơ tên là Xcôphơle.

Con
đường gần nhất là qua một phố ít người đi lại, ở đấy có nhà riêng ông
cha xứ. Cha là người đạo đức đáng kính và hay giúp đỡ ý kiến cho mọi
người. Lúc ông Mađơlen đi ngang qua nhà cha xứ, ngoài đường chỉ có một
người đi. Người ấy thấy như thế này: ông đã đi quá chỗ ấy bỗng dừng lại,
đứng im một lúc rồi quay về trước cửa nhà cha xứ. Ông giơ tay nắm lấy
chày gõ cửa, giơ lên rồi lại đứng im, suy nghĩ. Một chốc sau, đáng lẽ
đập chày gọi cửa, ông lại nhẹ nhàng bỏ chày ra, rồi vội vã đi thẳng,
thong thả như ban nãy.


Ông Mađơlen đến nhà lão Xcôphơle, thấy lão chữa bộ yên ngựa.

- Ông Xcôphơle ơi, ông có con ngựa nào không?

- Thưa ngài, ngựa nhà tôi con nào cũng hay cả. Nhưng ngài cho thế nào là ngựa hay mới được chứ?

- Là ngựa đi nổi hai mươi dặm một ngày.

- Ối chà, những hai mươi dặm!

- Phải.

- Đóng vào xe?

- Phải.

- Đi một chuyến như thế rồi thì phải nghỉ bao lâu?

- Hôm sau cần thì phải còn sức đi nữa.

- Cũng lại đi trở về con đường ấy?

- Phải.

- Chà! Chà! Lại những hai mươi dặm!

Ông Mađơlen móc túi lấy tờ giấy có ghi bút chì cho chủ ngựa xem. Trong giấy có ghi mấy con số 5, 5, 8 rưỡi.

- Ông thấy không? Tổng cộng mười chín rưỡi, coi như là hai mươi dặm.

-
Thưa ngài, tôi có thể thỏa mãn yêu cầu của ngài. Tôi có con ngựa bạch
thấp bé. Chắc ngài đã có một đôi lần trông thấy nó rồi. Giống ngựa miền
Bulonne hạ đấy. Nó hăng vô cùng. Trước người ta định dùng làm ngựa cưỡi.
Nhưng nó có chứng cất hậu, ai cưỡi cũng bị nó quăng xuống đất. Người ta
tưởng nó bất kham, chẳng ai biết dùng để làm gì. Thế là tôi mua và đem
đóng nó vào xe. Bẩm té ra đúng ý cu cậu, cu cậu trở nên hiền lành như
con gái và phi nhanh như gió. Ấy thế mà chớ dại trèo lên lưng cu cậu, cu
cậu không để người ta cưỡi đâu. Ai chẳng có tham vọng riêng. Bắt kéo xe
thì được, đem ra cưỡi thì không. Con ngựa này hình như nó đã tự bảo như
thế thật đấy.


- Vậy nó đi được chứ?

-
Hai mươi dặm của ngài, tôi cho là nó đi chưa đến tám tiếng đồng hồ đâu.
Mà cứ luôn luôn nước kiệu lớn đấy. Nhưng phải có những điều kiện như thế
này.


- Ông cứ nói.

-
Điều thứ nhất, đến nửa đường, ngài cho nó nghỉ xả hơi độ một giờ và cho
nó ăn, lúc nó ăn ngài phải phải đứng đó kẻo bọn làm công ở quán trọ nó
ăn bớt, vì tôi thấy các quán trọ, lúa ngựa thường hay bị bọn làm công
lấy đổi rượu uống chứ ngựa thì chẳng mấy khi được ăn.


- Tôi sẽ đứng đó.

- Điều thứ hai là… Bẩm xe để chính ngài dùng phải không?

- Phải.

- Bẩm thế ngài có biết cầm cương không?

- Có.

- Vậy thì ngài đi không thôi, đừng mang theo hành lý để cho ngựa kéo được nhẹ.

- Đồng ý.

- Nhưng ngài không đem theo ai thì xin ngài chịu khó đứng coi ngựa ăn.

- Được rồi.

- Ngài trả cho ba mươi phơrăng một ngày, kể cả ngày nghỉ. Không kém một trinh. Còn tiền lúa ngựa ăn thì về phần ngài chịu.

Ông Mađơlen mở túi lấy ra ba đồng tiền vàng Napoleon đặt lên bàn:

- Tôi đặt tiền trước cho hai ngày.

-
Điều thứ tư, đường trường như thế mà dùng cỗ xe có mui thì e nặng quá
làm nhọc ngựa. Xin ngài bằng lòng dùng cỗ xe nhẹ của tôi đây.


- Tôi bằng lòng.

- Xe thì nhẹ nhưng không có mui.

- Không hề gì.

- Ngài có nhớ bây giờ đang là mùa đông không?

Ông Mađơlen không đáp. Chủ ngựa lại nói:

- Và trời đang lạnh lắm đấy.

Ông Mađơlen vẫn không nói gì. Xcôphơle tiếp:

- Lại có thể có mưa nữa.

Ông Mađơlen ngẩng lên bảo:

- Sáng mai, bốn giờ rưỡi, ông mang xe và ngựa đến trước cửa nhà tôi.

-
Xin y hẹn. – Lão Xcôphơle lấy móng tay cạo cạo cái vết đen trên mặt bàn,
rồi nói tiếp với cái vẻ vô tình mà dân Flamăng thường khéo xen vào cái
tinh khôn của họ: “À! Từ nãy đến giờ tôi quên không nghĩ đến. Ngài thị
trưởng chưa cho tôi biết ngài đi đâu. Vậy ngài đi đâu thế?”


Từ lúc bắt đầu câu chuyện, lão đã băn khoăn về việc đó rồi nhưng không hiểu sao lão chưa dám nói.

Ông Mađơlen nói:

- Ngựa của ông hai chân trước có khỏe không?

- Bẩm khỏe lắm. Nhưng đến chỗ dốc thì ngài thong thả cho nó nhờ một tí. Con đường ngài đi có nhiều dốc không?

- Đừng quên sáng mai đến đằng nhà tôi đúng bốn giờ rưỡi sáng nhé! – ông Mađơlen trả lời thế rồi bước ra.

Lão
chủ ngựa “đực người” ra đúng như lời lão tự nhận sau đó. Ông thị trưởng
ra khỏi được ba bốn phút thì lại thấy mở cửa: vẫn là ông ta.


Trông ông có vẻ lanh lùng và tư lự.

- Này ông Xcôphơle, con ngựa và cái xe ông cho tôi thuê thứ nọ mang thứ kia, cả đôi đáng giá bao nhiêu?

Chủ ngựa cười ha hả:

- Thứ nọ kéo thứ kia chứ, bẩm ngài.

- Cũng được! Thế bao nhiêu?

- Bẩm ngài muốn mua lại hay sao?

-
Không. Nhưng cứ phòng xa, tôi muốn đặt tiền ký quỹ cho ông. Khi tôi về,
ông trả lại cho tôi. Cái xe và con ngựa ông định giá bao nhiêu?


- Bẩm ngài năm trăm phơrăng.

- Tiền đây.

Ông Mađơlen để tờ giấy bạc lên bàn rồi đi ra, lần này không trở lại nữa.

Lão
Xcôphơle bứt đầu bứt tai tiếc rẻ mãi sao không nói một nghìn phơrăng.
Thật ra cả cỗ xe và con ngựa chỉ đáng giá một trăm ê – qui thôi.


Lão
gọi vợ ra kể lại đầu đuôi câu chuyện. “Quái cái nhà ông này đi đâu thế
nhỉ?” Vợ chồng bàn nhau. Vợ nói: “Ông ấy đi Paris”. Chồng bảo: “Không
phải”. Ông thị trưởng bỏ quên mảnh giấy có ghi bút chì trên lò sưởi; lão
cầm lấy cố đoán xem. “Năm, sáu và tám rưỡi? Có lẽ đây là những trạm
trên đường thiên lý”. Lão quay lại bảo vợ: “Tìm ra rồi. – Thế nào? – Từ
đây đến Hetxdanh năm dặm, từ Hetxdanh đến Xanh Pôn sáu dặm, từ Xanh Pôn
đến Arát tám dặm rưỡi. Ông ấy đi Arát”.


Lúc ấy ông Mađơlen về đến nhà.

Lúc
trở về, ông đi theo con đường khác dài hơn, không đi ngang qua cửa nhà
cha xứ nữa. Hình như ông sợ nó cám dỗ. Đến nhà, ông lên ngay phòng riêng
và đóng cửa lại. Việc đó cũng thường thôi, vì có hôm ông cũng đi nghỉ
sớm được. Tuy thế, mụ gác cổng, đồng thời cũng là người hầu hạ duy nhất
của ông, cũng để ý nhận thấy ông tắt đèn từ lúc tám rưỡi, nên gặp người
thủ quỹ về sau đi qua, mụ thuật chuyện lại và thêm:


- Ông thị trưởng ốm đau gì phải không? Tôi coi bộ ông ta làm sao ấy.

Người
thủ quỹ ở ngay bên phòng dưới ông Mađơlen. Chẳng để ý gì đến lời mụ gác
cổng, hắn đi nằm và ngủ ngay. Vào khoảng nửa đêm, hắn giật mình thức
giấc. Trong giấc ngủ hắn nghe như có tiếng động ở tầng trên. Hắn lắng
tai nghe. Có tiếng chân người đi đi lại lại. Nghe kỹ thì là tiếng giầy
của ông Mađơlen. Hắn kinh ngạc vì thường thì trước giờ ông dậy, trong
phòng ông không bao giờ có tiếng động. Một lúc sau lại hình như có tiếng
tủ mở ra rồi khép lại. Có tiếng bàn ghế dịch đi rồi im lặng, rồi lại có
tiếng chân bước. Hắn ngồi nhổm dậy, tỉnh hẳn, nhìn qua cửa kính sang
phía tường trước mặt thấy có ánh sáng đo đỏ ở cửa sổ nào chiếu ra. Cứ
cái hướng ánh sáng ấy thì đúng là cái cửa sổ phòng ngủ của ông Mađơlen.
Ánh sáng lung linh hình như là có ai đốt cái gì chứ không phải thắp đèn.
Bóng sáng không in hình nẹp cửa kính, như thế nghĩa là cửa kính không
đóng. Trời rét thế này mà mở toang cả cửa sổ cũng là một điều lạ. Hắn
quay qua ngủ lại. Một vài giờ sau, hắn lại thức giấc. Vẫn cái bước chân
chậm chạp đều đều đi lại ngay ở trên đầu hắn.


Ánh
sáng chiếu sang bức tường vẫn còn, nhưng bây giờ nó mờ mờ và êm ả như
ánh sáng một ngọn đèn hay một ngọn nến. Cửa sổ vẫn mở toang.

Sau đây là những việc xảy ra trong phòng ông Mađơlen.
III

MỘT TRẬN BÃO TÁP TRONG ĐẦU




Chắc
độc giả đã đoán ra ông Mađơlen chính là Giăng VanGiăng rồi. Chúng ta đã
có lần nhìn sâu vào lương tâm ông; bây giờ lại nhìn vào đấy một lần
nữa. Làm việc này khó mà bình thản, khó mà không run sợ. Vì có gì ghê
rợn bằng cái việc
quan chiêm đó!


Một
con người, dù là con người không đáng kể đi nữa, đem tâm hồn họ mà viết
thành bài ca, thì đó là thiên hùng ca hay nhất, trọn vẹn nhất đúc lại
trên mọi thiên hùng ca. Ôi! Tâm hồn con người, bao nhiêu thứ mơ ước hão
huyền, bao nhiêu thứ lòng tham, ý định, chất chồng ở đấy! Bao nhiêu giấc
mơ nung nấu, bao nhiêu ý nghĩ sâu xa ẩn nấp ở đấy! Ngụy biện: thanh
minh ngự trị ở đấy, dục vọng xô xát nhau cũng ở đấy. Vào lúc một con
người đang suy nghĩ, thử bỏ qua vẻ mặt lạnh lùng mà nhìn vào trong bóng
tối, vào tâm hồn của họ mà xem. Bên ngoài có vẻ yên tĩnh mà ở đấy chính
là những tráng sĩ khổng lồ đang đánh nhau như trong thơ Hôme, những rồng
những rắn quần nhau bên cạnh vô số bóng ma như trong sách Mintơn, những
vòng nọ vòng kia chật ních những linh hồn như trong tưởng tượng của
Đăngtơ. Lương tâm là một cõi vô biên ghê rợn. Con người ai cũng có và
phải lấy đó để suy xét tất cả những ý muốn nảy ra trong óc và tất cả
những hành vi trải qua trong cuộc đời!


Ngày
xưa có kẻ đã đứng trước cửa một nơi kia nhưng vì cửa rùng rợn quá mà
ngập ngừng. Nhưng thôi, cứ vào vậy. Từ khi Giăng VanGiăng gặp thằng bé
Giecve, câu chuyện đã xảy ra như thế nào, độc giả biết cả rồi, không cần
phải nói thêm nhiều. Chỉ biết từ hôm ấy trở đi, Vangiăng đã thành một
con người khác. Ông giám mục muốn Vangiăng trở nên như thế nào, Vangiăng
đã làm y như thế. Không phải là một sự thay đổi, mà thật tình là một sự
lột xác.


Vangiăng
tìm cách mai danh ẩn tích, bán món đồ đạc của ông giám mục đi, chỉ giữ
có đôi chân đèn làm kỷ niệm. Vangiăng lén lút từ tỉnh này sang tỉnh
khác, đi suốt nước Pháp đến cảng
Môngtơrơi.
Ở đây Vangiăng nảy ra sáng kiến đã nói trên kia và làm được những việc
như đã biết, khiến cho mình thành người không ai bắt nổi và không ai dám
ngờ tới. Vangiăng yên tâm ở
Môngtơrơi,
sung sướng thấy mình không quên bài học đau buồn của dĩ vãng và cuộc
đời mình về sau đã rửa sạch được vết nhơ của nửa đời mình ngày trước.
Đời Vangiăng từ nay yên ổn: ông vững lòng và hy vọng. Bây giờ ông chỉ lo
có hai điều là giấu kỹ tên tuổi và sống một cuộc đời được thừa nhận,
thoát bàn tay người đời và trở về với Chúa. Hai ý nghĩ ấy gắn liền với
nhau thành một trong tâm trí Vangiăng. Cả hai quyết liệt chiếm hết tâm
trí và chi phối tất cả hành động của Vangiăng. Thường thì hai ý nghĩ ấy
thống nhất để định cho Vangiăng cách xử thế, làm cho Vangiăng ưa cảnh
sống tối tăm, biến Vangiăng thành người trung hậu, giản dị và cũng
khuyên Vangiăng những lời giống nhau. Nhưng đôi khi cũng có mâu thuẫn.
Lúc đó con người mà tất cả vùng
Môngtơrơi
gọi là ông Mađơlen đã hy sinh ý nghĩ thứ nhất cho ý nghĩ thứ hai, hy
sinh sự an toàn của mình cho đạo đức. Cho nên, mặc dầu phải hết sức đề
phòng và giữ gìn. Vangiăng vẫn giữ đôi chân đèn của ông giám mục, để
tang cho ông ấy, cho gọi và hỏi han tất cả những trẻ người xứ Xavoa đi
ngang qua tỉnh, điều tra về các gia đình ở
Phavơrôn và sứ cứu mạng cho lão Phôsơlơvăng,
chẳng kể gì đến những lời bóng gió đáng lo ngại của Giave. Hình như
Vangiăng đã theo gương những bậc hiền nhân quân tử và nghĩa vụ đầu tiên
của ông không phải là vì mình.


Tuy
vậy cũng phải nói rằng chưa bao giờ có việc như thế xảy ra. Chưa bao
giờ hai ý nghĩ ấy, hiện ngự trị con người đáng thương mà ta đang kể lại
cuộc đời đau khổ đây, lại xung đột nhau kịch liệt đến thế. Giave vào
buồng giấy ông, vừa thoạt nói mấy lời, ông đã lờ mờ hiểu ngay câu chuyện
và đã thấy nó sâu xa. Lúc đột nhiên nghe đọc đến cái tên đã chôn vùi
mấy lớp, ông như sững sờ choáng váng, vì thấy số mệnh sao lại có điều kỳ
dị kinh khủng đến thế. Qua phút sững sờ ông giật mình, cái giật mình
báo hiệu những cuộc biến đổi lớn. Bỗng dưng ông cúi đầu như cây cối
trước cơn giông, như người lính trước trận xung phong. Ông thấy như mây
đen, sấm sét đang kéo trên đầu mình. Nghe Giave nói, ông liền nghĩ đến
việc đi ngay, chạy ngay đi tự tố cáo để cứu lão
Săngmachiơ
và ngồi tù thay cho lão. Lòng ông đau như dao cắt. Nhưng rồi ý nghĩ ấy
qua đi, ông tự bảo mình: “Sao lại thế!” ông cố nén cái cử chỉ hào hiệp
ban đầu ấy đi và lùi bước, không dám dũng cảm.


Tất
nhiên, sau khi nghe những lời đáng tôn kính của ông giám mục, qua bao
nhiêu năm hối cải và nhẫn nhục, giữa lúc đang bắt tay vào việc chuộc tội
một cách hiệu quả đáng lẽ người ấy, mặc dầu đứng trước một nỗi băn
khoăn ghê gớm như lần này, nhất định không chịu chùn chân chút nào, cứ
thẳng bước đến chỗ vực thẳm mà dưới đáy thì lại là trời, được như thế
thì hay biết bao nhiêu. Nhưng nào có được thế. Chỉ biết là phải kể ra
đây tất cả những diễn biến trong tâm hồn con người ấy. Và cũng chỉ kể
được cái gì đã xảy ra thôi. Ban đầu ông bị bản năng sống còn lôi cuốn
ông vội tập trung mọi ý nghĩ lại, cố nén cơn xúc động, để ý đến sự có
mặt của Giave, mối nguy cơ lớn cho ông, hoãn những điều đã quyết định
với cái liều lĩnh của người đang sợ hãi, thận trọng đến mệt óc trong mọi
việc sắp làm và lấy cái thái độ bình tĩnh như người võ sĩ cúi nhặt lá
mộc đánh rơi vậy.


Cả
buổi tối hôm ấy, tâm trạng ông cứ như thế. Trong lòng rối như tơ vò mà
bề ngoài vẫn cứ điềm nhiên, bình thản. Ông chỉ thực hiện những “biện
pháp bảo lưu” thôi
(Danh từ chuyên môn về tư pháp). Tất
cả như mơ hồ và lộn xộn trong đầu óc ông. Lòng phân vân đến nỗi ông
không thể có được một ý kiến gì cho rõ rệt. Ngay cả bản thân ông, ông
cũng không hiểu như thế nào cả. Chỉ biết rằng mình vừa bị một vố nặng,
ông vẫn đến thăm Phăngtin ở phòng bệnh như mọi khi và nấn ná ở lại lâu
hơn. Lòng thương người khiến ông thấy cần phải làm như thế và ông ủy
thác chị cho hai bà xơ một cách cặn kẽ phòng khi ông phải vắng mặt. Ông
mơ hồ nghĩ rằng có lẽ cần phải đi Arát, nhưng chẳng có ý gì quả quyết
cả. Ông lại tự bảo như mình thì còn sợ gì ai nghi ngờ nữa, có tới đó
cũng không hại gì, lại được xem sự thể ra làm sao. Và ông đã đến thuê xe
ngựa của lão Xcôphơle, cũng là cách chuẩn bị đề phòng mọi sự bất trắc,
thế thôi.


Tối hôm ấy, ông ăn cơm khá ngon miệng.

Vào phòng nghỉ, ông bình tâm suy nghĩ lại.

Ông
nhận định lại tình hình và thấy thật là phi lý. Phi lý đến nỗi giữa lúc
suy nghĩ vẩn vơ như thế mà cũng hình như có mối lo sợ gì khó tả, buộc
ông phải đứng dậy ra đóng chặt cửa và cài then thật kỹ. Ông sợ còn có
cái gì nó vào nữa. Ông chặn ngang cửa để chống lại với cái có thể đến.


Một lát sau, ông tắt nến đi. Ánh sáng làm ông khó chịu.

Hình như người ta có thể trông thấy ông được.

Người ta, là ai?

Khổ thay! Ông muốn đuổi nó ra ngoài thì nó đã vào, ông muốn che mắt nó thì nó đã nhìn ông, nó là lương tâm ông.

Mà lương tâm ông tức là Chúa.


sao, lúc đầu ông vẫn còn ảo tưởng, cho mình thế là yên chí, chỉ có một
mình mình thôi. Cửa đã cài then không ai còn làm gì nổi mình; đèn đã tắt
đi rồi, còn ai trông thấy mình nữa. Bây giờ ông mới nhìn kỹ vào mình.
Gian phòng tối om. Ông tỳ khuỷu tay xuống bàn. Đưa bàn tay đỡ trán, ngồi
suy nghĩ.


“Ta
nghĩ đến đâu rồi? – Ta không mơ ngủ chứ? – Họ đã nói gì với ta? Có thật
ta đã gặp tên Giave và nó đã nói với ta như thế không? Tên
Săngmachiơ
là thế nào? – Nó giống ta ư? – Có thể thế được không? Hôm qua ta còn
được thảnh thơi và có ngờ đâu sự thể thế này! Hôm qua, giờ này ta đang
làm gì nhỉ? – Việc này nó thế nào? – Kết cục rồi ra sao? – Làm thế nào
bây giờ?”


Đấy,
trong lòng ông xốn xang như thế đấy. Đầu óc không còn sức suy nghĩ minh
bạch nữa, các ý nghĩ cứ xô đi như làn sóng, ông đưa hai tay ôm lấy đầu
như để giữ lại. Tình trạng bời bời ấy làm cho tâm trí và nghị lực ông bị
đảo lộn cả, ông muốn tìm một cái gì đích xác, muốn có một sự quyết
định, nhưng chỉ thấy có lo sợ. Đầu nóng bừng bừng. Ông ra cửa sổ, mở
toang cả hai cánh ra. Trên trời không một bóng sao. Ông lại vào bàn
ngồi.


Một
giờ đồng hồ trôi qua như thế. Dần dần một vài đầu mối bắt đầu hiện ra
và cấu kết lại trong ý nghĩ, làm ông thấy hé ra một cách chính xác thực
tế của cảnh ngộ mình tuy chưa được bao quát song đã chắc chắn được đôi
ba điều.


Ông bắt đầu nhận ra rằng dù cảnh ngộ ấy có kỳ dị bấp bênh đến đâu đi nữa, ông cũng hoàn toàn làm chủ được tình thế.

Vì lẽ ấy, ông lại càng thấy thêm lo sợ...

Các
việc ông làm đều nhằm mục đích sửa mình một cách nghiêm khắc, theo lời
răn của Chúa. Nhưng đặt mục đích ấy qua một bên thì tất cả những điều
ông làm, cầm bằng như ông đào một hố sâu để chôn chặt tên mình. Điều ông
sợ nhất trong những lúc ông trầm ngâm tự vấn hoặc trong những đêm trằn
trọc không ngủ, là có ai đọc đến tên ấy. Ông nghĩ rằng nếu việc ấy xảy
ra thì mọi sự coi như hỏng hết: cái tên ấy mà hiện ra thì nó sẽ làm tiêu
tan cuộc đời mới của ông, và biết đâu nó lại không làm tiêu tan cả tâm
hồn mới của ông nữa? Chỉ mới nghĩ việc ấy có thể xảy ra là ông đã rùng
mình.


Giả
dụ những lúc ấy có người đến nói với ông như thế này: có lúc cái tên ấy
sẽ vang đến bên tai, cái tên Giăng VanGiăng ghê tởm ấy sẽ từ trong bóng
tối hiện ra sừng sững trước mặt, những luồng ánh sáng vĩ đại lâu nay đã
xóa sạch cái màn bí mật chung quanh ông, bỗng dưng sáng rực hẳn lên,
làm cho mọi người chói mờ không trông thấy gì. Cái tên vì thế không còn
gì đáng sợ, cái màn bị xé lại tăng thêm sự bí mật, cái phút tưởng như
trời sa đất sụt kia lại là phút làm cho nền móng ngôi nhà thêm vững. Và
sự việc kỳ lạ kia chỉ đưa đến kết quả làm cho cuộc đời ông càng thêm
sáng tỏ đồng thời càng thêm khó hiểu, cái bóng ma Giăng VanGiăng đem đặt
bên ông tư sản Mađơlen đáng kính, chỉ làm cho ông càng thêm vinh dự,
càng thêm được kính mến, được yên tĩnh hơn giờ hết. Giả sử có ai nói với
ông như vậy, ông cũng sẽ lắc đầu và cho là vô lý. Thế mà tất cả những
cái đó vừa xảy ra, tất cả những cái không thể có đã có và Chúa đã cho
phép các thứ viển vông kia trở thành sự thật!


Suy nghĩ mãi cũng thấy sáng sủa dần ra. Mỗi lúc ông mỗi nhận rõ thêm cái thế của mình lúc này.

Ông
thấy mình như vừa tỉnh một giấc mơ và đương trượt dần trên một con
đường dốc trong đêm tối, đến bên bờ một cái vực sâu, cả người run lên mà
không sao lui trở lại được. Ông nhìn thấy rõ ràng trong bóng tối ấy có
một người lạ mặt mà số mệnh tưởng lầm là ông và đương đem xô xuống vực
thay cho ông. Trong hai người, hoặc ông hoặc người kia phải có một người
ngã xuống thì vực mới khép lại được.


Ông
cứ để cho việc xảy đến ra sao thì ra là yên. Giờ thì rõ ràng lắm rồi.
Ông tự thú điều này: - Chỗ của ông ở trong nhà lao vẫn còn bỏ trống. Dù
ông có muốn làm thế nào đi nữa, nó vẫn cứ chờ ông. Tội cướp tiền của
thằng bé Giecve đã đưa ông trở vào đó, cho nên cái chỗ bỏ trống ấy, nó
cứ chờ ông, lôi kéo ông, cho đến khi ông phải vào mới nghe. Đó là việc
không thể tránh được, thế nào cũng phải tới. Và ông lại nghĩ:


- Hiện giờ ông đã có một người thay thế. Nghe đâu tên Săngmachiơ nào đó đã vô phúc gặp phải cái không may ấy. Còn ông thì từ nay trong nhà lao đã có tên Săngmachiơ
thế chân, ngoài xã hội thì ông là Mađơlen, ông không còn phải lo gì
nữa, quý hồ ông cứ để cho người đời đem cái tấm bia chung thân ô nhục
kia đè lên đầu ông
Săngmachiơ; cái tấm bia ấy giống như cái nắp mồ, đã sập xuống một lần thì thôi, không bao giờ còn nâng lên được nữa...


Tất
cả những cái đó quá mãnh liệt, qua lạ đời. Trong người ông như có một
chuyển động gì khó tả, ít khi thấy nảy ra trong một đời người. Hình như
lương tâm đang vùng lên quằn quại, khuấy động tất cả những gì đáng nghi
ngờ của trái tim. Hình như trong đáy sâu của cõi lòng có một tiếng cười
phá đang vang lên, mà ý nghĩa gồm đủ mỉa mai vui mừng, lẫn thất vọng.


Bỗng ông thắp nến lên, tự bảo mình:

- Ơ
hay, ta sợ cái gì chứ? Sao ta lại phải nghĩ ngợi phân vân như thế? Ta
đã thoát nạn rồi. Xong cả rồi. Trước kia thì còn cái cửa bỏ ngỏ để dĩ
vãng có thể lọt được vào cuộc sống hiện tại. Cái cửa ấy, giờ đã xây bịt
lại rồi! Một cách vĩnh viễn! Cái thằng Giave ấy, lâu nay nó làm ta lo
lắng, nó theo dõi ta khắp nơi, cái linh tính đáng sợ của nó hình như đã
đoán được ra ta, mà đoán được ra rồi chứ còn gì nữa! Cái tên chó săn
đáng tởm ấy nó rình ta từng bước, nay thì nó lạc hướng rồi, lo chạy theo
con đường khác rồi, nó sẽ để cho ta yên, nó đã nắm được tên Giăng
VanGiăng của nó rồi! Hình như nó lại muốn bỏ nơi đây mà đi! Và cái
chuyện này xảy ra ta có biết đâu! Ta có can dự gì đến đó đâu! Nhưng mà
này! Trong chuyện này có cái gì gọi là đáng trách được không! Những
người gặp ta chắc sẽ tưởng ta gặp nạn lớn! Chung quy lại, nếu có ai gặp
tai họa phen này thì chẳng phải lỗi ở ta chỗ nào cả. Thôi thì cũng là
tại trời cả. Có lẽ trời muốn như thế thật. Ta có quyền gì xáo trộn việc
trời đã xếp đặt? Ta cầu mong gì bây giờ? Tại sao ta cứ chực xen vào việc
này? Can dự gì đến ta đâu. Ơ hay! Ta không bằng lòng hay sao? Mà ta đòi
hỏi cái gì chứ? Cái mục đích lâu nay ta theo đuổi, cái điều hằng đếm ta
mơ ước, điều mà ta đem cầu nguyện với trời là sự an toàn, thì ta đạt
được rồi! Ý Chúa là như vậy. Ta còn làm gì trái nổi ý Chúa được. Mà tại
sao ý Chúa lại muốn như thế? Chính là để ta tiếp tục cái việc ta mới bắt
đầu, để ta làm điều thiện, để ta có thể một ngày kia nêu tấm gương sáng
cho người khác, để người ta thấy rằng kẻ đã biết hối quá, đã biết tu
tỉnh thì cũng sẽ được hưởng phần hạnh phúc! Thật lạ, ta không hiểu tại
sao ban nãy ta không dám vào nói hết câu chuyện với ông cha xứ đáng kính
ấy, như một người xưng tội. Chắc hỏi ý kiến ông, ông cũng sẽ trả lời
như ta nghĩ thôi. Nhất định rồi, cứ mặc cho công việc tiếp diễn! Để yên
cho Chúa định đoạt!


Đó
là lời ông tự nhủ. Lời nói vang lên từ tận đáy lòng khi ông cúi nhìn
xuống cái có thể gọi là vực thẳm của lòng ông. Sau đó ông đứng lên, đi
bách bộ trong phòng – thôi, đừng nghĩ đến việc đó nữa. Quyết định rồi
mà! Nhưng trong lòng vẫn không thấy vui.


Trái lại nữa.

Người
ta không sao ngăn trí óc trở lại với một ý nghĩ, cũng như không sao
ngăn sóng bể lui ra rồi lại xô trở vào bờ. Với người thủy thủ, đó là
thủy triều. Với kẻ có tội, đó là lòng hối hận. Chúa khuấy động linh hồn
con người cũng như làm cho đại dương nổi sóng vậy.


Chỉ
một lát sau, dù đã cố sức quên đi, ông lại phải trở lại với cuộc đối
thoại đau khổ lúc trước, mình nói rồi mình lại nghe. Nói lên những điều
mình không muốn nói tới, rồi phải nghe những điều mình không muốn để vào
tai. Đành để cho một sức gì huyền bí nó lôi cuốn và ra lệnh: “Nghĩ đi!”
như nó đã ra lệnh cho một kẻ có tội trước đây khác trước đây hai nghìn
năm! “Đi đi”.


Trước khi kể tiếp xin nhấn mạnh một nhận xét cần thiết để mọi người hiểu đầy đủ câu chuyện.

Loài
người biết suy nghĩ, ai cùng từng trải qua những phút mình nói với
mình. Ngôn ngữ thật không bao giờ huyền diệu tuyệt vời, bằng khi ở bên
trong con người, nó như con thoi chuyển từ trí tuệ đến lương tâm rồi từ
lương tâm quay về với trí tuệ. Những chữ “ông nói”, “ông kêu lên” thường
gặp trong chương này, chính phải hiểu theo nghĩa ấy. Người ta tự nói
với mình, tự bảo với mình, tự kêu lên với mình. Thật là ầm ĩ: cái gì
trong ta cũng nói, chỉ miệng là không. Nhưng sự im lặng chung quanh
không hề lúc nào bị ngắt quãng. Bao nhiêu hiện thực của tâm hồn, không
trông thấy, không sờ mó được, nhưng vẫn là những hiện thực.


Ông
hỏi mình suy tính đến đâu rồi. Ông tự vấn xem “quyết định như thế”, thì
rồi ra sao? Ông tự thú, công việc xếp đặt như thế là bất nhân. Cái lối
để mặc cho công việc xảy ra, phải để yên cho Chúa định đoạt là một lối
rõ ràng ghê tởm. Cứ để mặc cho số mệnh và người đời nhầm lẫn, không ngăn
cản nó lại, yên lặng để phụ họa với nó, không làm gì cả, tức là mình đã
làm tất cả đấy! Đó là một việc gian giảo đốn mạt nhất! Đó là một tội ác
khốn nạn, hèn hạ, hiểm độc, đáng khinh, đáng tởm!


Suốt
tám năm, lần này là lần đầu con người đáng thương ấy mới lại thất cái
vị cay đắng của một ý nghĩ xấu và của một hành động xấu. Ông kinh tởm,
khạc nhổ nó đi.


Ông
tiếp tục tự vấn. Ông nghiêm khắc tự hỏi mình định nói gì với câu “mục
đích đã đạt”? Ông nhận rằng đời mình có một mục đích thực, nhưng mục
đích gì? Giấu tên giấu tuổi à? Che mắt bọn cảnh sát à? Chẳng lẽ đã làm
những việc như mình đã làm, là chỉ vì một điều nhỏ mọn như thế? Thế
không còn mục đích nào khác, cao cả, chân chính nữa sao? Cứu vớt lấy
linh hồn, chứ không phải thể xác. Trở lại thành người ngay thẳng và nhân
từ. Thành con người chính trực! Đó có phải là điều mình ước mong và là
điều độc nhất mình ước mong không? Đó có phải là điều ông giám mục
khuyên bảo không? Đoạn tuyệt với dĩ vãng à? Trời ơi! Có đoạn tuyệt đâu,
thế là nối lại đấy, bằng một hành động khốn nạn đấy! Thế là trở lại
thành một thằng ăn cắp đáng khinh ghét nhất! Mình đã ăn cắp cái sinh
mệnh của người ta, cả cuộc đời, cả sự yên ổn, cả cái chỗ đứng của người
ta dưới ánh sáng mặt trời! Mình thành một tên sát nhân! Không phải giết
bằng gươm đao, mà giết bằng tinh thần một con người khốn nạn. Buộc người
ta phải chịu một cái chết thê thảm, cái chết dần chết mòn, chết không
mồ không mả, ngay giữa cảnh thanh thiên bạch nhật, tức là cảnh tù ngục.
Trái lại, ra thú đi, cứu cho người ta khỏi cái tai ách bị lầm lẫn ghê
gớm, lấy lại cái tên cũ, theo nghĩa vụ mà trở lại thằng khổ sai Giăng
VanGiăng, đấy mới thực là hoàn thành cái việc tái tạo và vĩnh viễn thoát
khỏi chốn địa ngục là nơi mà mình mới vừa bước chân ra khỏi. Vào tù
lại, trông thì như là sa trở vào địa ngục, nhưng thực tế thì thoát khỏi!
Phải làm như thế mới đúng! Nếu không thì bao nhiêu điều đã làm đều coi
như không có. Cả sự nghiệp trước thành vô ích, cả cuộc đời hối lỗi đều
bỏ đi, mình chỉ còn tự bảo mình một lời: ích gì? Ông thấy hình như có
ông giám mục ở trước mặt. Ông giám mục đã mất, nên nay lại hiện ra rõ
rệt. Ông đang nhìn đăm đăm và bảo rằng ông thị trưởng Mađơlen có tiếng
là đạo đức, té ra lại thật là bỉ ổi, còn tên tù Giăng VanGiăng thì sẽ
lại trong sạch, đáng quý biết bao. Người đời chỉ trông thấy cái mặt nạ
của ta, nhưng ông giám mục thì nom thấy rõ được mặt thật. Người đời chỉ
nom thấy cuộc sống bên ngoài của ta, nhưng ông giám mục thì trông suốt
đến cả lương tâm. Thế thì phải đi Arát, giải thoát cho Giăng VanGiăng
giả kia và tố giác tên Giăng VanGiăng thật! Than ơi! Đó là sự hy sinh
cao cả nhất, một cuộc chiến thắng thương tâm nhất, cái bước sau cùng khó
khăn nhất. Nhưng cần phải bước qua cái bước ấy. Đau đớn thay là số
mệnh! Muốn thành người trong sạch trước mặt Chúa, lại phải chịu làm kẻ ô
nhục trước mặt người đời!


“Dứt khoát rồi, phải theo con đường ấy! Phải làm bổn phận của mình. Phải cứu người ấy”.

Ông cao giọng nói to câu ấy mà không biết.

Ông
giở sổ sách ra, kiểm soát lại và sắp xếp cho gọn ghẽ. Ông lấy bó văn tự
mượn nợ của những người buôn bán nhỏ túng thiếu ném vào lửa. Ông viết
một bức thư, niêm phong lại và đề ngoài phong bì: “Gửi ông Laphít chủ
ngân hàng phố Actoa, Paris”.


Ông mở ngăn bàn giấy lấy ra một cái ví đựng một ít giấy bạc và tờ thông hành ông vừa dùng đi bầu cử trong năm ấy.

Ai
trông thấy ông làm các việc ấy mà nét mặt không thôi trầm ngâm tư lự,
chắc thừa hiểu trong bụng ông đang suy nghĩ nhiều lắm. Chốc chốc, thấy
môi ông hơi mấp máy; có lúc ông lại ngước nhìn chăm chú vào một chỗ nào
đó trên vách, dường như ở đó có cái gì phải hỏi han, phải làm cho sáng
tỏ.

Viết xong một bức thư, ông bỏ cả thư và ví vào túi áo rồi lại đứng dậy đi bách bộ.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content
Tước hiệu




Những người khốn khổ - Victor Hugo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những người khốn khổ - Victor Hugo   Những người khốn khổ - Victor Hugo I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 

Những người khốn khổ - Victor Hugo

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 

 Similar topics

-
» Dành cho những người hâm mộ bóng đá!!
» Sự giống nhau giữa Wrestlers và những người không phải Wrestlers.
» Tập thể dục kiểu người lớn
» Hàng [HOT] đây dzô lẹ đi mọi người
» Sự thật chết người
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
~Giải trí lành mạnh~ :: Truyện đọc :: Truyện dài-
.levelbg{line-height: 13px;background: url(/users/2211/12/43/96/album/levelc10.png) no-repeat;width: 120px; height: 13px;padding-top: 2px;padding-left: 2px;}